Các bài suy niệm trong buổi đi đàng Thánh Giá ngày thứ sáu Tuần Thánh tại đấu truờng Colosseo năm nay do bà Anne-Marie Pelletier, chuyên viên Thánh Kinh người Pháp soạn thảo. Bà đã muốn dành nhiều chỗ cho nữ giới trong các suy niệm của mình, bằng cách trích các tác phẩm của thánh nữ Catarina thành Siena, Etty Hillesum, và trong số các chứng nhân của thời đại chúng ta bà nhắc tới các đan sĩ Tibhirine. Trong nỗi khổ đau của Chúa Giêsu ngày nay người ta nhận ra các khổ đau của mọi nạn nhân nam nữ của bạo lực, của các trẻ em bị hãm hiếp, hạ nhục, tra tấn và ám sát.
Sau đây chúng tôi xin gủi tới quý vị bài phỏng vấn bà dành cho phóng viên Tiziana Campisi của chương trình Ý ngữ đài Vatican.
Hỏi: Thưa bà Anne-Marie bà đã có cảm tường gì khi được mời viết các bài suy niệm cho buổi đi đàng Thánh Giá của ĐTC Phanxicô tại hí trường Colosseo tối thứ sáu Tuần Thánh?
Đáp: Tôi đã rất ngạc nhiên và bị lạc hướng, và tự hỏi tại sao mình lại phải viết các lời được đọc trong một lúc quan trọng như thế trong phụng vụ của Giáo Hội. Ban đầu tôi hơi hoảng hốt bởi tư tưởng phải dùng các lời của mình để diễn tả mầu nhiệm Thập Giá, điều mà Chúa Kitô định nghĩa là giờ của Ngài – nghĩa là thực tại có thể cảm nhận nhất, định đoạt nhất – và dùng các lời ấy nhân danh Giáo Hội công giáo, làm sao để từng người có thể nhận ra họ trong đó. Rồi tâm tình đầu tiên này biến thành một niềm vui lớn với tư tưởng là năm nay một phụ nữ lên tiếng trong các suy niệm của Đường Thánh Giá tại Colosseo. Tôi đã lập tức trực giác rằng đây là một dịp lớn cho các phụ nữ, nhưng cũng là cho Giáo Hội. Nói cho cùng, một biến cố, khá tự nhiên, nếu ta nghĩ rằng trong các đoạn Tin Mừng về cuộc Khổ Nạn có các phụ nữ, và còn hơn thế nữa nhất là các phụ nữ ở lại dưới chân Thập Giá, và trong lúc Phục Sinh, ngay từ ban đầu, lại cũng có các phụ nữ. Như vậy, tất cả các biến cố này đều gắn liền một cách mật thiết với sự hiện diện của nữ giới, và đối với tôi xem ra là điều tự nhiên tiếng nói của một phụ nữ có thể diễn giải suy niệm của Giáo Hội trong buổi đi Đàng Thánh Giá này.
Hỏi: Đâu là các đề tài bà muốn khai triển trong buổi đi Đàng Thánh Giá này?
Đáp: Tôi đã không nghĩ tới điều tôi muốn nói hay điều tôi đã muốn thông truyền. Tư tưởng của tôi đã là ở trên con đường này, tìm bước theo Chúa Giêsu lên đồi Golgotha. Đây là một chiều kích tư tưởng của Thiên Chúa chứ không phải của chúng ta, vì thế tôi đã tìm có môt thái độ lắng nghe và thinh lặng để đi tới một mâu thuẫn ngoại thường cho chính tôi và cho người khác, mâu thuẫn được hiện thực trong giờ của cuộc Khổ Nạn, điều mà Thánh Kinh định nghĩa là giờ chưa từng được nghe của Thiên Chúa, và nó đụng chạm một cách mạnh mẽ và sâu xa toàn hoạt động của thế giới hiện đại của chúng ta.
Hỏi: Mười bốn chặng đường Thánh Giá của bà là các chặng truyền thống. Tại sao bà lại có lựa chọn này?
Đáp: Tôi đã đi từ sự kiện Đường Thánh Giá có các quy chiếu khác nhau và không có một lược đồ bắt buộc nào, và tôi đã chọn các lúc đối với tôi xem ra chúng đặc biệt có ý nghĩa. Vì thế tôi đã quyết định đưa vào cả biến cố Phêrô chối Chúa, và cảnh quan Philatô sau khi hội ý với quyền bính Do thái cũng tuyên bố Đức Kitô phải bị đóng đanh. Đối với tôi thật rất là quan trọng muốn nhớ lại trong trạng huống này rằng người Do thái và người ngoại giáo đồng loã với nhau trong việc kết án tử Chúa Giêsu. Chúng ta biết rằng trong dòng lịch sử các kitô hữu đã bị cám dỗ gán trách nhiệm liên quan tới cái chết của Chúa Kitô cho dân Do thái. Tuy nhiên, các văn bản như đã được viết ra, giúp chúng ta hiểu rằng thật ra chúng ta đang đứng trước một thảm kịch tinh thần khổng lồ, trong đó người Do thái và người ngoại giáo hiệp nhất trong cùng một việc khước từ Chúa Kitô, trong cùng bạo lực đưa tới việc kết án tử Ngài. Ngoài ra, tôi cũng nghĩ rằng trong chặng trong đó Chúa Giêsu bị lăng nhục, chế nhạo và khiêu khích bởi các tư tế và lính tráng, thách đố “hãy tự cứu lấy mình” ở trong con tim của tất cả mọi người, bao gồm cả các kitô hữu nữa. Chúa Kitô Đấng đã cứu thoát tất cả mọi người nam nữ trong sự tuyệt vọng và trong bệnh tật của họ, trong lúc này không biểu lộ quyền năng của Ngài và tất cả các hình ảnh liên quan tới sự toàn quyền của Thiên Chúa sụp đổ trong lúc của cuộc Khổ Nạn. Tất cả mọi dấu chỉ bị đảo lộn. Điều chúng ta gọi là quyền lực được vén mở hiện diện trong sự yếu đuối tột cùng, trong sự bất lực của Chúa Kitô bị đóng đanh vào Thập Giá. Vì vậy đối với tôi xem ra quan trọng dừng lại trên lúc này của cuộc Khổ Nạn và mời gọi suy gẫm nó.
Hỏi: Các suy gẫm của bà lấy hứng từ đâu?
Đáp: Một cách nền tảng tôi sẽ nói chúng lấy hứng từ kinh nghiệm tín hữu của tôi, từ kinh nghiệm của cuộc chiến đấu của đức tin. Bởi vì khi chúng ta đứng trước - như trong trường hợp của cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu - đứng trước tư tưởng tuyệt đối này của Thiên Chúa, mỗi người trong chúng ta đều cảm thấy lạc lõng và khó bước vào cái luận lý của Thánh Kinh của cái “đã phải như thế”. Đây đã là sự quen thuộc của tôi với cái luận lý đó, được miêu tả trong bài thánh thi mà chúng ta tìm thấy trong thư gửi tín hữu Philiphê - một trong các văn bản tôi ưa thích - “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2,6-7). Văn bản đã giúp tôi bước vào lắng nghe các biến cố của Đường Thánh Giá.
Hỏi: Thưa bà, đâu là chặng trong đó bà cảm thấy mình sống nó nhất?
Đáp: Thật khó trả lời. Mỗi chặng đều nói lên một điều gì đó mạnh mẽ và định đoạt. Có lẽ chặng ông Simong vác đỡ thánh giá Chúa, bởi vì tôi đã bị đánh động bởi các chi tiết tôi đã không bao giờ ghi nhận trước đó. Chúa Giêsu ngã xuống đất, giao thoa với môt người qua đường, và ông ta bị lính bắt buộc vác Thập Giá. Ông Simong người thành Cirene là một người Libi, và tôi nhận ra rằng ông ta không thuộc những người đợi chờ sự an ủi của Israel, như Phúc Âm nói. Ông được giới thiệu với chúng ta như một người bất ngờ giao thoa con đường của Chúa Kitô, và như thế xa lạ với các biến cố đang xảy ra. Ông đứng trước một người bị kết án, thân thể bầm dập vì bị tra tấn, mặt biến dạng không còn hình tượng người ta nữa, như sách ngôn sứ Isaia nói về người tôi tớ. Nhưng Simong Cirene không quay nhìn về phiá bên kia, ông đơn sơ chấp nhận giúp Chúa Giêsu. Đối với tôi, ở đây chúng ta đứng trước một cử chỉ rất đánh động, tôi sẽ nói là thuộc các cử chỉ mà Vasilij Grossman lấy lại tư tưởng của triết gia Emmanuel Lévinas gọi là “lòng tốt nhỏ bé”, nghĩa là sự chuyển động cuả lòng cảm thương trước nỗi khổ đau của người khác. Ông Simong thành Cirene đã biết có phản ứng đơn sơ này cứu giúp Chúa Giêsu trong lúc đó, mà không biết là mình gặp gỡ con đường của Con Thiên Chúa. Tất cả những điều đó theo tôi minh nhiên tốt Phúc Âm thánh Mátthêu nói rằng khi lịch sử kết thúc nhân loại sẽ bị phán xử bởi khả năng có các cử chỉ trợ giúp và cảm thương đối với người ngoại kiều, đối với ai trần trụi hay tù nhân. Nói cách khác, mỗi người đã thực thi lòng cảm thương như thế, cả khi không ý thức là đã săn sóc thân mình của Chúa Kitô, và vì thế bước vào trong sự cứu rỗi mà Thiên Chúa trao ban.
Hỏi: Có một sứ điệp mà bà muốn trao ban qua các văn bản suy niệm của bà hay không?
Đáp: Một cách nền tảng tôi đã tìm gây ý thức trên sự kiện các biến cố thê thảm của cuộc Khổ Nạn có cái gì nhân bản: Chúa Kitô bị kết án tử, bị đặt dưới bạo lực của loài người. Các biến cố như thế dậy chúng ta rằng chúng ta phải thành công đạt điều mà ĐTC Phanxicô gọi là “niềm vui của Tin Mừng”. Chúng ta đang đứng trước thực tại của một sự thất bại, của khổ đau chiến thắng, của vương quốc sự chết. Nhưng như là kitô hữu chúng ta được dẫn đưa tới chỗ khám phá ra rằng trong tất cả những điều đó có chiến thắng của Thiên Chúa trên tội lỗi, trên bạo lực, trên cái chết. Đó là lý do tại sao Đàng Thánh Giá cũng phong phú lời cầu nguyện tạ ơn. Tôi nghĩ rằng trong thế giới chúng ta đang sống ngày nay - một thế giới bị sự dữ và cái chết tống tiền - thật là quan trọng ý thức rằng là kitô hữu là trái nghịch với sự tống tiền ấy của bạo lực, cái chết và ý thức rằng tình yêu mạnh hơn. Tình yêu thương đến từ Thiên Chúa chiến thắng mọi sự. Tôi nghĩ rằng kitô hữu ngày nay có bổn phận làm chứng cho điều này.
Hỏi: Trong các suy niệm bà cũng trích thánh nữ Catarina thành Siena và Etty Hillesum nữa, có đúng thế không?
Đáp: Vâng, đúng thế. Ngoài hai phụ nữ này cũng có tiếng nói của các người khác trong các suy niệm của tôi. Đối với tôi thật là quan trọng làm vang vọng lên tiếng nói của cả hai người, cũng như tiếng nói của Dietrich Bonhoeffer, của các đan sĩ Tibhirine hay của thần học gia chính thống Christos Yannaras. Thật ra, tôi nghĩ rằng toàn nhân loại được mời gọi trên đồi Golgotha và đương nhiên là toàn thể Giáo Hội nữa, trong sự khác biệt của nó. Như thế, chúng ta tất cả cùng nhau bước đi trên con đường này, hướng tới sự hiểu biết những gì xảy ra dọc con Đường Thập Giá.
Hỏi: Các đan sĩ Tibhirine được nhắc tới trong một lúc đặc biệt có phải thế không?
Đáp: Phải, bởi vì thảm cảnh của bạo lực kìm kẹp nhân loại, là thảm cảnh của các người vô tội chịu đựng bạo lực ấy và thảm cảnh của Chúa Kitô cùng với họ. Nhưng các đan sĩ Tibhirine dậy chúng ta rằng bạo lực của kẻ khác - khiến cho chúng ta sợ hãi và có thể nghiền nát chúng ta – thực ra là một bạo lực ở trong trái tim mỗi một người, và vì thế lời cầu nguyện đích thực là được giải thoát khỏi bạo lực của các người khác, nhưng cả bạo lực của chính chúng ta nữa. Cả điều này nữa đối với tôi xem ra quan trọng phải nhấn mạnh, qua lịch sử của các đan sĩ Tibhirine.
Hỏi: Trong chặng cuối cùng bà đã nêu bật sự hiện diện của các phụ nữ, có đúng vậy không?
Đáp: Vâng. Tôi đã muốn rằng chặng thứ 14 được dành cho thứ bẩy Tuần Thánh. Tin Mừng chỉ cống hiến cho ngày đó ít lời và các lời này liên quan tới các phụ nữ. Đó là các phụ nữ đã từ mộ trở về sau khi liệm xác Chúa Giêsu, họ đi chuẩn bị vải để có thể cuốn xác Chúa sau ngày Shabát. Cả khi phụng vụ của chúng ta không dành một vang vọng lớn cho nó, nhưng tôi nghĩ rằng Thứ Bẩy Tuần Thánh là một lúc nền tảng. Nó là lúc cầm trí, thinh lặng; nó chuẩn bị cho chúng ta nhận biết sự phục sinh. Và nó cũng là một lúc nữ tính, cho thấy các phụ nữ bị thử thách bởi cái chết của Chúa Giêsu, đồng thời họ tiếp tục có một thái độ của sự sống: họ chuẩn bị vải để đi thờ kính xác Chúa Kitô và họ có một thái độ rất khác với thái độ của các môn đệ làng Emmaus. Các môn đệ này thất vọng và lạc hướng, trái lại các phụ nữ không cho thấy như vậy, họ chuẩn bị vải một cách đơn sơ, và như thế sẵn sàng tiếp nhận sự ngạc nhiên lớn lời loan báo của sự Phục Sinh. (SD 8-4-2017)
Linh Tiến Khải
(Nguồn: Radio Vatican)