MỘT NGÀY LÀ CHỦNG SINH GIOAN - MÃI MÃI THUỘC GIA ĐÌNH GIOAN

Những công trình mà Giáo Hội cống hiến cho nhân loại

Chủ nghĩa thế tục hóa và chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa cá nhân được cổ súy mỗi ngày một mạnh mẽ qua các phương tiện truyền thông của thời kỹ thuật số đang tìm cách hạ uy tín của Giáo Hội Công Giáo – chứng nhân của Chân Lý, Hy Vọng và Niềm Hạnh Phúc Vĩnh Hằng - là khuynh hướng của thế giới ngày hôm nay. Nhân loại không biết rằng, nền văn minh tiến bộ ngày hôm nay họ đang hưởng dùng đều bắt nguồn từ Giáo Hội Công Giáo như người tiên phong mở đường đưa họ đến những chân trời mới lạ… Bài viết dưới đây của Cha Andrew Pinsent cho thấy điều đó…

Cha Andrew Pinsent, tác giả của bài viết này, là một Linh Mục của giáo phận Arundel và Brighton và là Giám Đốc Nghiên Cứu của Trung tâm Khoa Học và Tôn Giáo Ian Ramsey tại Đại học Oxford. Cha nguyên là một nhà vật lý phân tử tại CERN [1]. Cha cũng là người đồng sáng lập cùng với Cha Marcus Holden, thành lập Dự Án Rao Giảng Tin Mừng (Evangelium Project), nhằm để nâng cao chất lượng giáo dục Công giáo. (Xin tham khảo thêm website của dự án này ở www.evangelium.co.uk.)

Giới thiệu

Tại một cuộc tranh luận gần đây được BBC phát sóng trên toàn thế giới, có hơn 87 phần trăm khán giả đã bác bỏ quan điểm cho rằng Giáo Hội Công Giáo không phải là một tổ chức tích cực trên thế giới. Mặc dù những người bênh vực Giáo Hội ra sức đương đầu với những thách thức, khó khăn của chiều kích toàn cầu hóa và hưởng thụ hóa, tuy thế, phần lớn dư luận cho rằng cuộc bình chọn trên phản ánh một thái độ thay đổi đối với Kitô Giáo nói chung và niềm tin Công Giáo nói riêng. Nói thẳng ra không cần úp mở, trong thời gian trước đây, mọi người xem Giáo Hội chúng ta tốt đẹp, còn bây giờ, chúng ta ngày càng bị xem là xấu xa, tiêu cực. Kết quả là, việc giảng dạy đức tin và bảo vệ đạo đức Kitô Giáo thật sự đã trở nên khó khăn hơn nhiều tong thời đại hôm nay.

Để giải quyết thách đố trên nơi chính gốc rễ của nó, tôi tin rằng đây là điều tối quan trọng, là chúng ta phải luôn tự khẳng định chính mình về niềm tin Công giáo là một thực tại tốt đẹp trên thế giới. Chúa Giêsu nói: "Người ta sẽ biết các con bằng hoa trái việc làm của các con”, và thậm chí cả một số người ở bên ngoài Giáo Hội đánh giá rất cao thành quả mà Giáo Hội có được. Trong năm 2007, ví dụ, một doanh nhân vô thần, ông Robert Wilson, đã tặng 22.500.000 $ (tức khoảng 13.500.000 £) cho việc giáo dục Công giáo tại New York, và ông cho rằng, "không có Giáo Hội Công Giáo, sẽ không có nền văn minh phương Tây."

Lấy cảm hứng từ cái nhìn sâu sắc của doanh nhân vô thần Robert Wilson, gần đây tôi đã làm việc chung với cha Marcus Holden, linh mục chánh xứ của Ramsgate và là tuyên úy tại Maryvale, bằng cách đối chiếu những đóng góp đặc biệt mà văn hóa và tinh thần Công giáo mang lại cho con người. Những phần dưới đây cho thấy sự đóng góp này thật là vô giá mà bất kỳ ai cũng đều phải chân nhận điều đó khi phải đối mặt với câu hỏi: " Giáo Hội đã từng làm cho chúng ta những điều gì?”

Để hiểu hơn về những thành quả mà Đức Tin Công giáo đã mang lại cho nhân loại trong nhiều lĩnh vực khác, xin các bạn xem Lumen: “Quà Tặng Công Giáo cho Nền Văn Minh” (The Catholic Gift to Civilization), được Hội Sự Thật Công Giáo xuất bản vào tháng 1 năm 2011.

1. Ánh sáng và vũ trụ

Tác phẩm nổi tiếng Maius Opus (năm 1267) [2] của một thầy dòng Thánh Phanxico, Thầy Roger Bacon, (mất năm 1292), được viết theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Clement IV, bắt đầu khai mở một khoa quang học truyền thống trong thế giới La-tinh. Những cặp kính đeo mắt đầu tiên đã được phát minh ở Ý vào khoảng năm 1300, và một trong những ứng dụng của thấu kính đó sau này được phát triển thành kính viễn vọng và kính hiển vi.

Rất nhiều người nghĩ Galileo (chết năm 1642) do bị bức hại, họ có xu hướng không quan tâm đến những hoàn cảnh đặc thù của sự kiện này, thực tế là nhà bác học Galileo không bị hành hình và bị thiêu chết trên giàn hỏa như nhiều người nghĩ, nhưng nhà bác học đã chết trong nhà của mình, và con gái của nhà bác đã trở thành một nữ tu.

Lịch Gregorian (được phát kiến năm 1582), nay được sử dụng trên toàn thế giới, là một thành quả phát minh bởi nhà thiên văn học Công Giáo, và công trình vật lý thiên văn nghiên cứu quang phổ do Cha Angelo Secchi (mất năm 1878) đã phát minh và để lại cho nhân loại.

Công trình đáng kể nhất về nghiên cứu vũ trụ, đó chính là vụ nổ Big Bang, một lý thuyết quan trọng nhất của vũ trụ học hiện đại, được phát minh bởi một linh mục Công giáo, Cha Georges Lemaitre (mất năm 1966), thực tế về phát minh lịch sử này, đài BBC gần như không bao giờ đề cập, hay được nói đến trong các sách khoa học phổ biến.

2. Trái đất và Thế Giới Tự Nhiên

Nền văn minh Công giáo đã góp phần đáng kể vào việc tầm tra khoa học và vẽ bản đồ của trái đất, do Giáo Hội Công Giáo khích lệ những nhà thám hiểm thế giới vĩ đại như Marco Polo (mất năm 1324), Hoàng tử Henry the Navigator (mất 1460), Bartolomeu Dias (mất năm 1500), Christopher Columbus (mất năm 1506 ) và Ferdinand Magellan (mất năm 1521). Chẳng những không tin vào lý thuyết thế giới bằng phẳng như cái dĩa, những nhà thám hiểm người Công giáo này còn có công mang đến cho nhân loại một bản đồ khoa học đầu tiên: bản đồ Padrón Real của Diogo Ribeiro (mất năm 1527). Cha Nicolas Steno (mất năm 1686) là người sáng lập của các môn địa tầng học, giải thích các tầng lớp đá là một trong những nguyên tắc về địa chất học.

Nhà bác học Jean-Baptiste Lamarck (mất năm 1829), một người Công giáo Pháp, lập ra lý thuyết đầu tiên của sự tiến hóa, bao gồm những khái niệm về sự biến đổi của các loài và sự liên hệ giữa các loài thể hiện qua cây phả hệ. Tu sĩ Augustine Gregor Mendel (mất năm 1884) lập ra khoa di truyền học dựa trên việc nghiên cứu tỉ mỉ các đặc tính di truyền của khoảng 29.000 loại thực vật họ đậu

3. Triết học và Thần học

Công Giáo xem triết học, theo như bản chất của chính bộ môn này, thật thích hợp và có ích lợi cho việc phát triển trí năng đồng thời là một bộ phận không thể thiếu được để xây dựng môn thần học là môn học ứng dụng lý trí để có thể lãnh hội được những thực tại thuộc thế giới siêu nhiên. Những cây đại thụ của triết học Công Giáo có Thánh Augustine (mất năm 430), Thánh Thomas Aquinas (mất năm 1274), Thánh Anselm (mất năm 1109), Chân Phước Duns Scotus (mất 1308), triết gia Suárez (mất 1617) và triết gia Blaise Pascal (mất 1662). Những triết gia Công Giáo gần đây có Thánh Edith Stein (mất năm 1942), triết gia Elizabeth Anscombe (mất 2001) và triết gia Alasdair MacIntyre… Trên cơ sở đó, Công Giáo tin tưởng Thiên Chúa là Thiên Chúa của lý trí và tình yêu. Người Công giáo đã bảo vệ tính vẹn toàn của con người đối với thế giới vật chất, nguyên lý nền tảng sự hiện hữu của thế giới sinh vật và vật chất, nguyên nhân tối hậu của những hành động, ý chí tự do, vai trò của các nhân đức trong vấn đề hạnh phúc, mục đích tốt và xấu, luật tự nhiên và nguyên tắc tương hợp - không mâu thuẫn… Những nguyên tắc này đã có một ảnh hưởng khôn lường trên đời sống trí thức và văn hóa của nhân loại cho đến ngày hôm nay.

4. Giáo dục và hệ thống các trường đại học

Có lẽ sự đóng góp lớn nhất và độc đáo nhất về giáo dục mà Công Giáo mang lại cho nền văn minh nhân loại là sự phát triển của hệ thống trường đại học. Các trường đại học Công Giáo có sớm nhất bao gồm Đại Học Bologna (thành lập năm 1088); Đại Học Paris (1150), Đại Học Oxford (1167); Đại Học Salerno (1173); Đại Học Vicenza (1204), Đại Học Cambridge (1209); Đại Học Salamanca (1218-1219); Đại Học Padua (1222); Đại Học Naples (1224) và Đại Học Vercelli (1228). Đến giữa thế kỷ 15 (hơn 70 năm trước khi thời kỳ Cải Cách), đã có trên 50 trường đại học Công Giáo ở châu Âu.

Rất nhiều trường trong số các trường đại học này, chẳng hạn như Đại Học Oxford, vẫn còn đó những dấu hiệu nguồn gốc Công Giáo của mình, ví dụ như cái huy hiệu bốn cạnh tượng trưng cho Thánh Giá được treo trên khắp các hành lang quanh Đại Học giống như trong các tu viện, lối kiến trúc Gothic với rất nhiều nhà nguyện. Ngay từ thế kỷ thứ sáu, Công Giáo ở Châu Âu đã hình thành và phát triển một hệ thống giáo dục mà sau này được gọi là trường học ngữ pháp, và trong thế kỷ 15, hệ thống in ấn báo chí được phát triển và ứng dụng trong các trường học đã mang lại những lợi ích khôn lường cho việc giáo dục. Ở thời điểm hiện tại ngày hôm nay, người ta ước tính rằng các trường học Công Giáo đang giáo dục và đào tạo cho hơn 50 triệu sinh viên trên toàn thế giới.

5. Nghệ thuật và kiến trúc

Niềm tin vào Mầu Nhiệm Nhập Thể, Ngôi Lời mang lấy xác thể, và Hy Tế của Thánh Lễ đã trở nên nguồn cảm hứng bất tận làm phong phú cho việc Giáo Hội Công Giáo đóng góp cách đặc biệt vào lãnh vực nghệ thuật và kiến trúc. Những đóng góp này bao gồm: các Đại Thánh Đường ở Rô-ma; các tác phẩm của Giotto (mất 1337), người đã khởi xướng chủ nghĩa hiện thực trong hội họa qua các bức tranh “Những Chặng Đàng Thánh Giá của Anh Em Tu Sĩ Dòng Thánh Phan-xi-cô”, đã truyền cảm hứng cho loại hình nghệ thuật ba chiều và phim truyền hình, kịch nghệ ngày nay; việc phát minh loại hình hội họa nghệ thuât phối cảnh không gian ba chiều xuất phát từ một điểm quy chiếu mà ta gọi là điểm tuyến tính phối cảnh do một người Công Giáo tìm ra, đó là họa sĩ Brunelleschi (mất năm 1446); và các công trình nổi tiếng của thời kỳ Phục Hưng vẫn còn đó trong các viện bảo tàng ở Châu Âu.

Loại thứ hai bao gồm các tác phẩm của Chân Phước Fra Angelico (mất năm 1455), mà hôm nay người ta chọn làm vị thánh bảo trợ nghệ thuật; và công trình vô song của danh họa Leonardo da Vinci (mất 1519), danh họa Raphael (mất 1520), danh họa Caravaggio (mất 1610,), danh họa Michelangelo ( mất 1564) và danh họa Bernini (mất 1680). Rất nhiều công trình nghệ thuật của những nghệ sĩ này, chẳng hạn như bức bích họa trên trần nhà nguyện Sistine, được coi là một trong những công trình nghệ thuật lớn nhất của mọi thời đại. Giáo Hội Công Giáo cũng để lại các loại hình tổng thể kiến trúc rất độc đáo, ví dụ như kiểu Byzantine, kiểu xây dựng Romanesque, kiểu kiến trúc Gothic, kiểu nhà thờ Phục Hưng và kiểu kiến trúc Baroque. Bức tượng Chúa Ki-tô Cứu Thế (Cristo Redentor) [4] ở Brazil và Vương Cung Thánh Đường Sagrada Familia ở Barcelona cho thấy rằng đức tin Công Giáo vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng bất tận cho nền nghệ thuật và kiến trúc truyền thống mọi thời.

6. Pháp Luật và Luật Học

Những cải cách của Đức Giáo Hoàng Gregory VII (mất năm 1085,) cũng tạo nên động lực để hình thành những bộ luật của Giáo Hội và của các quốc gia Châu Âu. Việc ứng dụng những nguyên tắc của triết học vào pháp luật, cùng với các công trình nghiên cứu rất đáng trân trọng của các tu sĩ ở thế kỷ thứ 12, đã tạo ra một bộ luật hoàn chỉnh và có tính khoa học đầu tiên mà trong đó tất cả điều khoản, các phần được xem như là tương hợp với nhau trong một tổng thể chung. Cuộc cách mạng này dẫn đến việc thành lập các trường luật, bắt đầu tại trường Đại Học Bologna (1088), từ đó nghề luật nổi lên, và khái niệm như "tổ chức pháp nhân", “cơ quan”, “tổ chức”… rồi đến các cơ sở pháp lý của một loạt các cơ quan chẳng hạn như các trường đại học, các công ty và quỹ tín thác… xuất hiện trong vài thập niên cách đây…. Những nguyên tắc pháp lý như "thiện ý", tôn trọng quyền lợi, bình đẳng trước pháp luật, luật pháp quốc tế, xét xử, bồi thẩm đoàn, lệnh đình chỉ bắt giam, và việc bắt buộc phải chứng minh sự hồ nghi tội phạm vượt quá khả năng phạm tội…v..v… đó là tất cả những thành quả của nền văn minh và khoa luật pháp mà Công Giáo mang đến cho thế giới.

7. Ngôn Ngữ

Việc nhấn mạnh tiếng Hy Lạp và tiếng La-tinh trong truyền thống Công Giáo đã tạo ra nhiều thuận lợi cho việc phổ biến khả năng đọc viết cho mọi người, vì khi bảng chữ cái được phát minh thật sự đã làm cho việc đọc và viết dễ dàng hơn so với ngôn ngữ mang nhiều hình tượng, chẳng hạn như tiếng Trung Quốc. Sự mở rộng công việc truyền giáo mà Giáo Hội Công Giáo có nhiệm vụ phải thực hiện theo lệnh Chúa Giê-su, và những cuộc thăm dò, thám hiểm đã làm cho bảng chữ cái Latinh được ứng dụng rộng rãi trong các hệ thống chữ viết trên khắp thế giới. Công Giáo cũng phát triển các bản chữ cái tiếng Armenia, Georgia và Cyrillic, và những bản chữ in tiêu chuẩn, như bản Carolingian khổ rất nhỏ ngay từ thế kỷ thứ 9 đến thể kỷ 12, và cả bản chữ in Gothic (từ thế kỷ 12). Công Giáo cũng tạo nên một cái khung nền cho các tác phẩm văn hoá như Divina Commedia (Thiên Sử Thi do Dante viết) [5], Cantar de Mio Cid (Câu Chuyện và Truyền Thuyết về Một Quý Tộc thời Trung Cổ) và La Chanson de Roland (Bài Ca của Roland), và rất nhiều tác phẩm bằng tiếng địa phương đã tác động đến sự phát triển của Ý, Tây Ban Nha và Pháp cách đáng kể. Bài Vinh Tụng Ca Công Giáo của Cædmon [6] viết vào thế kỷ thứ bảy được cho là văn bản tiếng Anh cổ lâu đời nhất còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Valentin Haüy (mất năm 1822), anh trai của Abbé Haüy (là một linh mục, người phát minh ra tinh thể học), thành lập ngôi trường học đầu tiên cho người mù. Sinh viên nổi tiếng nhất của trường này, Louis Braille (mất năm 1852) [7], đã phát triển một hệ thống chữ cho người mù học mà ngày nay trên toàn thế giới hệ thống chữ dành cho người mù này mang tên ông.

8. Âm Nhạc

Xuất phát từ âm nhạc phụng tự của những người Do Thái từ thời Cựu Ước, Công giáo hầu như phát minh ra nền văn minh truyền thống âm nhạc phương Tây. Thể loại Bình Ca Đơn Âm Gregorian (Monophonic Gregorian chant) dùng trong phụng vụ Rô-ma phát triển từ thế kỷ thứ sáu. Những phương pháp ký âm giai điệu đã làm phát sinh ra những khái niệm âm nhạc (như ký hiệu khuông nhạc) mang đến những lợi ích không đếm xuể cho việc ghi chép các tác phẩm âm nhạc, và hệ thống thang âm “ut-re-mi” (do-re-mi) là công trình của một tu sĩ dòng Benedictine, Thầy Guido of Arezzo (mất năm 1003). Từ thế kỷ thứ 10, các trường phái thánh ca phát triển âm nhạc đa âm, sau này mở rộng đến 40 âm (Tallis, Spem in Alium) và thậm chí đến 60 âm (Striggio, Missa Sopra Ecco).

Các thể thể loại âm nhạc mà hầu như phần lớn, hoặc toàn bộ đều bắt nguồn từ nền văn minh Công Giáo bao gồm các bài thánh ca, các thể loại diễn xướng và nhạc kịch opera. Nhạc sư Haydn (mất 1809), một người Công giáo mộ đạo, đã định hình cách vững chắc cho sự phát triển của các bài giao hưởng và bộ tứ tấu đàn dây (violon, viola, cello và bass). Qua sự bảo trợ của Giáo Hội và việc khích lệ các hình thức phụng vụ, nhiều công trình tác phẩm vĩ đại được hình thành bởi các nhạc sĩ bậc thầy như Monteverdi (mất năm1643), Vivaldi (mất năm 1741), Mozart (mất năm 1791) và Beethoven (mất năm 1827). Bản nhạc Đại Giao Hưởng số 8 của Mahler (mất năm 1911) lấy chủ đề và nguồn cảm hứng từ bài thánh ca cổ xưa của Lễ Ngũ Tuần, Veni creator Spiritus.

9. Chỗ đứng của phụ nữ

Trái với định kiến thông thường trọng nam khinh nữ, nền văn minh Công Giáo coi trọng và đề cao những phụ nữ nổi tiếng và có ảnh hưởng. Giáo Hội đã tôn vinh nhiều vị thánh nữ, kể cả những vị thánh nữ tiến sĩ gần đây của Giáo Hội, và tỏ lòng quý trọng các nữ tu tuyệt vời, chẳng hạn như Thánh nữ Hilda (mất năm 680) (về sau trường học của Thánh nữ Hilda lập, được đặt tên là Oxford) và Chân Phước Hildegard von Bingen (mất năm 1179), là nữ tu viện trưởng và là một người uyên bác. Những phụ nữ Công giáo đi tiên phong trong lãnh vực chính trị có Hoàng hậu Matilda (mất 1167), nữ quận chúa Eleanor của Aquitaine, một người giàu có, quyền lực và nhân ái (mất năm 1204) và Nữ hoàng đầu tiên của nước Anh, Mary Tudor (mất năm 1558).

Công giáo cũng mang đến cho nền văn minh nhân loại nhiều nhà khoa học và giáo sư đầu tiên của thế giới là những phụ nữ: nữ giáo sư vật lý người Ý, Trotula của thành Salerno trong thế kỷ 11, và nữ giáo sư vật lý người Ý, Dorotea Bucca (mất năm 1436), là người đã giữ ghế giáo sư y khoa tại Đại học Bologna, nữ triết gia Elena Lucrezia Piscopia thành Venice (mất năm1684), lần đầu tiên người phụ nữ nhận được một văn bằng Tiến sĩ Triết học (1678) và Maria Agnesi (d 1799), một triết gia, một nhà ngữ học và toán học là người phụ nữ đầu tiên được Đức Giáo Hoàng Benedict XIV chỉ định trở thành giáo sư toán học đầu tiên tại Ý vào năm 1750.

Philip Tran chuyển ngữ

(Nguồn http://www.catholicherald.co.uk)

____________________________________________

Chú thích

[1] CERN được bắt nguồn từ các từ viết tắt tiếng Pháp: Conseil Européen pour la Recherche Nucléaire, một cơ thể thành lập năm 1952 với nhiệm vụ thành lập một tổ chức nghiên cứu vật lý cơ bản với tầm cỡ thế giới đặt ở châu Âu. (http://angelsanddemons.cern.ch/)

[2] Tác phẩm Majus Opus (Latinh có nghĩa là "Đại công trình") là công trình quan trọng nhất của Roger Bacon (c. 1214–1294). Nó được viết bằng tiếng Latin trung cổ, theo yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Clement IV, để giải thích những công việc mà Bacon đã thực hiện. Cuốn tổng luận dày 840 trang bàn về tất cả các khía cạnh của khoa học tự nhiên, từ ngữ pháp và logic cho đến toán học, vật lý, và triết học. Tác phẩm Bacon đã được gửi đến Đức Giáo Hoàng trong năm 1267, kèm theo một lá thư ông bày tỏ sự cống hiến đó, đã được tìm thấy bởi FA Gasquet tại Thư viện Vatican và đã được xuất bản vào năm 1897.

[3] Lịch Gregorian, còn được gọi là lịch phương Tây, hoặc lịch Kitô giáo, là lịch quốc tế, được cải cách từ lịch Julian kết hợp với chu kỳ của mặt trăng để tính ngày Lễ Phục Sinh. Nó được giới thiệu bởi Giáo hoàng Gregory XIII, mà sau này người ta dùng tên ngài để đặt tên cho lịch này. Lịch được cải cách, thông qua năm 1582 bởi một số quốc gia, và lịch này được dùng cho đến ngày nay.

[4] Bức tượng Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc (tiếng Bồ Đào Nha: Cristo Redentor) được làm bằng bê tông cốt thép kết hợp với đá, và được xây dựng giữa năm 1922 và 1931. Bức tượng đặt ở thành phố Rio de Janeiro, Brazil; được coi là một công trình nghệ thuật lớn thứ hai trên thế giới. Tượng cao 39,6 mét (khoảng 130 feet), bao gồm: bệ có chiều cao là 9,5 mét, hai cánh tay giang rộng 30 mét, nặng 635 tấn và được đặt tại đỉnh núi Corcovado cao 700 mét (khoảng 2.300 feet) trong rừng Vườn Quốc Gia Tijuca nhìn ra thành phố Rio de Janeiro. Bức tượng đã trở thành một biểu tượng Ki-tô Giáo của thành Rio de Janeiro và của nước Brazil.

[5] The Divine Comedy (Italian: Divina Commedia), được Dante Alighieri (1256–1308) viết vào khỏang 1308 cho đến trước khi ông ta chết 1321. Bài thơ sử thi đồ sộ này được coi là trung tâm của văn học Ý, và là công trình vĩ đại nhất của văn học thế giới. Tầm nhìn và trí tưởng vô cùng phong phú cùng những ngụ ngôn trong bài thơ của một tín hữu Công Giáo là một cái nhìn tột bậc về thế giới trung cổ cũng như sự phát triển của Giáo Hội Công Giáo. Được thiết lập trên phương ngữ của tiếng Tuscan và viết theo chuẩn mực của tiếng Ý, bài sử thi này gồm hơn 14.000 dòng được chia làm 3 phần Inferno (Hỏa Ngục), Purgatorio (Luyện Ngục), và Paradiso (Thiên đàng).

[6] Cædmon (mất năm 680) là nhà thơ người Anh đầu tiên được thế giới biết đến. Cædmon cũng là một tu sĩ nhiệt thành và một nhà thơ đầy cảm hứng tôn giáo. Cædmon là một trong mười hai nhà thơ Anglo-Saxon được biết đến trong thời trung cổ. Công trình hiện còn lại của Cædmon, bài “Cædmon’s Hymn”, là bài thơ khen ngợi, vinh danh Thiên Chúa. Bài thơ là một trong những ví dụ chứng tỏ sự xuất hiện của tiếng Anh rất sớm

[7] Louis Braille, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1809 tại Coupvray (gần Paris), Pháp, mất ngày 6 tháng 1 năm 1852, là người phát minh ra kiểu chữ Braille dành cho người mù và người khiếm thị. Cha ông, ông Simon-René Braille, là thợ sản xuất yên và cương ngựa. Năm lên ba tuổi, Louis bị thương ở mắt trái do bị dùi đâm phải. Vết thương bị nhiễm trùng và lây sang mắt phải, khiến Braille bị mù hoàn toàn. Vào năm mười tuổi, ông giành được học bổng đi học tại Học viện Hoàng gia dành cho Thanh niên mù (ngày nay là Học viện Quốc gia dành cho thanh niên mù) tại Paris. Ở trường, những đứa trẻ được học đọc các ký tự in nổi nhưng không thể học viết do các ký tự được tạo thành do những trang giấy ép lên sợi dây đồng.

Đến năm 13 tuổi, ông phát minh ra hệ thống các dấu chấm nổi, nhờ ý tưởng qua cuộc viếng thăm của ông Đại úy về hưu Charles Barbier của Serre, người đã phát triển một hệ thống chữ viết cho phép người ta trao đổi mệnh lệnh quân đội trong đêm tối. Hệ thống này dựa trên mười hai chấm, do đó nó khá phức tạp, còn hệ thống của Braille chỉ sử dụng có sáu chấm. Braille còn cải tiến hệ thống của mình để viết được cả ký hiệu toán học và nhạc lý.