MỘT NGÀY LÀ CHỦNG SINH GIOAN - MÃI MÃI THUỘC GIA ĐÌNH GIOAN

Giáo phận Đà Nẵng: Con đường đã qua và đang tới

I. NHÌN LẠI

Giáo phận Đà Nẵng, nếu tính từ thời điểm có sắc chỉ “In vitae naturalis similitudinem” của ĐGH Gioan 23, thành lập giáo phận ngày 18.01.1963, vẫn được xem là Giáo phận trẻ so với nhiều giáo phận khác. Tuy vậy, với những yếu tố lịch sử, địa dư, xã hội… liên quan, Giáo phận Đà Nẵng lại mang trong mình nhiều đặc điểm của một Giáo hội Việt Nam kiên cường và sống động. Những thăng trầm và dấu ấn lịch sử của Giáo hội hoàn vũ, đất nước và địa phương, đã cho Đà Nẵng những khả năng để minh chứng Đạo Chúa và để làm cho sứ điệp Tin Mừng của Chúa Kitô được tiếp tục sống động và hiệu quả cho đời sống con người nơi vùng đất Quảng Nam - Đà Nẵng của miền Trung nhiều thử thách này.

1- Trong dòng lịch sử Giáo hội Việt Nam:

Biên niên sử của Giáo hội Việt Nam thời sơ khai (1615-1885) khắc ghi nhiều niên biểu, địa danh và sự kiện liên quan đến Giáo phận Đà Nẵng ngày nay.

- Trước hết, là địa danh Cù lao Chàm với biến cố Duarte Coelho dựng Thánh giá (1516) ; Hội An (Faifo / Phố Hội) nơi đã vinh dự đón những bước chân đầu tiên và cũng là cư sở của các vị thừa sai, các thương nhân công giáo người Bồ đào Nha, Pháp, Ý: Cha Francesco Buzomi, Diego Carvalho, Thầy Antonio Dias và Paul đến Cửa Hàn, Hội An (ngày 18.01.1615), Cha Pina (1622-23), Cha Alexande de Rhodes (1624/ 1640/ 1642); Công nghị năm 1664 do Đức Cha Lambert de la Motte tổ chức, hoạch định đường hướng mục vụ chung theo Huấn dụ của Tòa Thánh và Công nghị lần II do Đức Cha Mahot (1682-1684) tổ chức tại Hội An ; Địa danh Phước Kiều (Thanh Chiêm), năm 1644, đã hân hạnh là nơi đón nhận những giọt máu chứng nhân đức tin anh hùng của vị Tử đạo tiên khởi là Thầy giảng Anrê Phú Yên (1625-1644) ; Các địa danh Bàu Nghè (An Ngãi), An Sơn, Phú Quý, Phú Thượng, Trà Kiệu… cũng là những nơi gánh chịu nhiều tổn thất của các cuộc bách hại đức tin và lưu giữ dấu tích liên quan đến các vị chứng nhân đức tin qua nhiều thời kỳ.

- Thứ đến, từ vùng đất Quảng Nam Đà Nẵng này, Dòng Tên đã đặt nền móng xây dựng Giáo Hội Việt Nam tại nơi đây và phát triển Đạo Chúa sang các tỉnh thành Đàng Trong và sau đó là Đàng Ngoài, đồng thời có những đóng góp lớn lao. Về phần đời, đó là những đóng góp về khoa học (những kiến thức mới về toán học, thiên văn, hàng hải…) ; là những đóng góp về sử học và địa lý Việt Nam thông qua các bản tường trình và các tác phẩm đã được xuất bản thời đó, giúp hiểu về đất nước và con người Việt Nam cùng với những tiếp xúc giao tế với mọi thành phần trong xã hội để phần nào có được những nhận xét và đánh giá thiện cảm đúng mực về người Việt Nam. Một đóng góp được kể là công trình vĩ đại giúp nước ta vươn đến thế giới văn minh nhanh chóng chính là chữ Quốc ngữ, do các vị Thừa Sai uyên bác: Buzomi, Pina và Alexandre de Rhodes, cũng đã hình thành và xuất hiện từ các vùng miền của Quảng Nam Đà Nẵng, như phương tiện thích ứng với công cuộc rao giảng Tin mừng của thời sơ khai. Về phần Đạo, những đóng góp được ghi nhận xuất phát từ nôi truyền giáo Hội An là: những thích nghi văn hóa vào đời sống tôn giáo, phong phú ngôn ngữ Việt Nam với các từ ngữ tôn giáo và ứng dụng các câu chữ thánh hiền để diễn tả các chân lý Đạo, tổ chức các nghi thức tôn giáo (tang chế, hôn lễ) hợp với phong tục Việt Nam, tổ chức Hội Thầy Giảng và Nhà Đức Chúa Trời để mời gọi giáo dân tham gia việc truyền giáo, vận động chuẩn bị cho Việt Nam có Giám mục Đại diện Tông Tòa và đào tạo linh mục bản quốc, xây dựng nền văn chương Kitô giáo qua việc sáng tác, sao lục, in ấn và phổ biến tác phẩm tôn giáo, tổ chức sinh hoạt các xứ đạo nền nếp: kinh nguyện, giáo lý, đi làm phúc…

- Sau nữa, do địa hình sơn thủy giao hòa, mà các cảng sông biển, đường bộ của Quảng Nam Đà Nẵng vẫn là nơi cập bến hoặc di chuyển của nhiều các vị thừa sai của các Hội (Thừa sai Ba-lê), Dòng (Tên, Phan-xi-cô…), các vị Giám mục khả kính, trên con đường thiên lý rao giảng Phúc Âm và thành lập Hội thánh địa phương của Đàng Trong.

Chính từ yếu tố nền tảng từ lịch sử này, bao thế hệ giáo dân, giáo sĩ xuất thân từ Quảng Nam và Đà Nẵng đã lưu giữ và phát huy một truyền thống đức tin mạnh mẽ và sống động, vượt qua mọi thử thách cản trở của thời cuộc để tiếp tục tồn tại và minh chứng cho giá trị Nước Trời trong mọi hoàn cảnh, mọi biến chuyển của đời sống xã hội, chính trị, kinh tế. Giáo phận Đà Nẵng vẫn luôn tiếp nối sự khởi đầu cần thiết cho công cuộc rao giảng và chứng tá Tin Mừng cách quả cảm và kiên trì theo dòng lịch sử, từ khi thành lập cho đến nay, với những nỗ lực thích ứng về mục vụ huấn giáo, truyền giáo, bác ái xã hội, tông đồ giáo dân… đều khắp các miền xứ thành thị lẫn thôn quê.

2- Theo dòng lịch sử Giáo hội hoàn vũ:

Giáo phận Đà Nẵng thực sự là đứa con của Công đồng Vaticanô II (11.10.1962-08.12.1965) khi được thành lập (tách ra từ Giáo phận Quy Nhơn vào ngày 18.01.1963) vào chính thời điểm diễn ra công đồng Vaticanô II, như lời huấn từ của Đức Giám mục tiên khởi Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi của Giáo phận phát biểu trong ngày nhậm chức (01.5.1963): “Tôi rất vui mừng vì việc thiết lập Địa phận Đà Nẵng trùng năm với việc chiêu tập Công đồng Vatican đệ nhị. Lịch sử Đà Nẵng sẽ gắn liền với lịch sử Công đồng Vatican II. Cũng như Giáo hội sau Công đồng sẽ có một bộ mặt mới và một tinh thần mới thì Đà Nẵng của Công đồng Vatican II cũng sẽ có một bộ mặt và một tinh thần mới. Bộ mặt và tinh thần thực thụ của Chúa Kitô”. Chính quyết tâm xây dựng Giáo phận mới theo tinh thần của Công đồng của Đức Cố Giám mục tiên khởi đã trở nên định hướng cho mọi nỗ lực xây dựng và phát triển của Giáo phận non trẻ này. Những hướng dẫn mang tính canh tân của Công đồng Vatican II thực sự được cập nhật và áp dụng đúng lúc tại Giáo phận. Trước hết là những Ủy ban được thành lập theo các Tự Sắc của Đức Giáo hoàng Phaolô VI: Ủy ban Phụng vụ, Ủy ban Truyền thông, Ủy ban Công giáo Tiến hành, Ủy ban Caritas, Ủy ban Giáo lý, Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Ủy ban Công lý Hòa bình (Ủy ban Phát triển). Tiếp theo là những Hội đồng Mục vụ, Hội đồng Linh mục, Hội đồng Giáo dân, Hội đồng Giáo xứ và những quy chế tương ứng. Tất cả được khai triển cùng với các khóa huấn luyện, học tập, hội thảo và đại hội. Không chỉ là những thay đổi về các nghi lễ cử hành Phụng vụ, hình thành các đoàn thể ban ngành Công giáo Tiến hành theo các chỉ dẫn của Công đồng và việc xây dựng các cơ sở đào tạo, mục vụ…, mà còn là một tinh thần sống đạo đích thực và tinh tuyền luôn được hướng dẫn và thực hành “ad Gentes”, hướng về công cuộc Truyền bá đức tin, hoạt động tông đồ giáo dân trong mọi tầng lớp, mọi lãnh vực và hoàn cảnh cuộc sống. Cần ghi nhận những hoạt động tông đồ giáo dân sau khi đã thấm nhuần tinh thần của Công đồng qua sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, bằng việc thi hành công việc này theo cả cơ chế cũ (Công giáo tiến hành với các đoàn thể đã có sẵn) và cơ chế mới (với Hội đồng Giáo xứ và Hội đồng Giáo dân cấp Giáo phận) qua các biến động của thời cuộc.

Tinh thần và giá trị đời sống Tin mừng theo Công đồng Vatican II vẫn tiếp tục là ý hướng chủ đạo cho mọi sinh hoạt âm thầm và sâu lắng của Giáo phận vào những năm sau biến cố 1975. Dù không còn những phương tiện khả dĩ để hoạt động (các cơ sở tôn giáo, các hội đoàn), dù sự mất mát về nhân sự (giáo sĩ và giáo dân) của một số lớn các xứ đạo (di cư đến những nơi khác hoặc hồi cư, không được phong chức linh mục) ; nhưng việc âm thầm nuôi dưỡng đức tin và củng cố lòng cậy mến đã giúp giáo phận hồi phục và tiến triển khi cơ hội đến: chuẩn bị các dự tu nhập đại chủng viện, củng cố các xứ đạo cũ và hình thành các xứ họ mới, xây dựng lại các công trình và cơ sở tôn giáo… Đáng ghi nhận ở đây là sự hợp nhất và đồng thuận của mọi tầng lớp trong giáo phận, giữa chủ chăn và đoàn chiên, bền tâm và nhiệt thành vượt qua những khó khăn của hoàn cảnh và thời cuộc để tiếp tục nuôi dưỡng và phát huy tiềm năng sống và minh chứng đức tin.

3- Theo dòng lịch sử đất nước:

Những biến cố thăng trầm trong dòng lịch sử đất nước vẫn luôn trở thành những khả năng để thanh luyện hoặc phát triển Giáo hội địa phương. Vùng đất Quảng Nam - Đà Nẵng từng là nơi xảy ra và tiếp nhận nhiều biến cố đặc biệt theo vận mệnh của đất nước. Đó là cuộc hành trình về phương Nam của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (với địa danh Dinh Trấn, nơi đặt bản doanh tiền phương của nhiều thời Chúa Nguyễn trước khi thiết lập vương triều và đặt kinh đô tại Thuận Hóa). Đó cũng là nơi vang lên những phát súng đầu tiên (năm 1858) của thời kỳ Pháp thuộc và các cuộc đối kháng, bách hại của nhiều thập kỷ về sau; là nơi đặt những bước chân và căn cứ quân sự đầu tiên của những quân nhân Mỹ, Hàn, Úc trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Quảng Nam - Đà Nẵng cũng là nơi tạm dung của nhiều thế hệ di dân thời cuộc: năm 1954 với hàng trăm ngàn dân di cư từ nhiều tỉnh miền Bắc; năm 1964, 1968, 1972, 1975 với những người tản cư do chiến sự leo thang hoặc do thiên tai tàn phá một số vùng miền thuộc các tỉnh Bắc và Nam Trung Bộ (Quảng Ngãi, Quảng Tín, Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị)…

Những thăng trầm và biến chuyển của dòng lịch sử đất nước đã ảnh hưởng đến sự hình thành và biến đổi về dân số, nhân sự và các xứ đạo tại Giáo phận Đà Nẵng, trước và sau khi thành lập. Sự chuyển đổi nơi cư trú vì lý do chiến sự, kinh tế… đã ảnh hưởng đến việc tổ chức và các hoạt động tôn giáo, nhiều khi khiến giáo phận trở nên “quá tải” hoặc “hoang vắng”. Trong bầu khí thường xuyên đối diện với những chuyển biến đó, các phương thức hoạt động công giáo tiến hành, các tổ chức cử hành sinh hoạt đạo đức, những nền nếp sống đạo quen thuộc của các địa phương đã phần nào thay đổi theo hướng hòa nhập và thăng tiến do sự tham gia của nhiều lớp giáo dân của các vùng miền. Đối diện với những “can thiệp” của lịch sử tạo nên những biến thiên trong giáo hội địa phương, Giáo phận Đà Nẵng vẫn cố gắng vượt qua những khó khăn mất mát, để sống đức tin và truyền rao những giá trị rạng ngời của Tin Mừng yêu thương và sự sống cho mọi người và mọi nơi, bằng những nỗ lực sống của mọi thành phần dân Chúa. Những số liệu về tăng tiến nhân sự (giáo dân, giáo lý viên, chức việc, chủng sinh, tu sĩ, giáo sĩ) của những năm gần đây đã cho thấy nỗ lực đó.

II - HƯỚNG TỚI

Đức Thánh Cha Benêđictô XVI, trong Tông Sắc phong Giám Mục Chính Tòa cho vị Giám Mục đương nhiệm Giuse Châu Ngọc Tri của Giáo phận Đà Nẵng (ngày 13.5.2006), đã nhắc nhở: “Sau hết, hỡi con yêu dấu, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Đồng Trinh Maria, Ta nguyện xin ơn Thánh Thần tuôn đổ tràn đầy trên con, để nhờ đó, con chu toàn nhiệm vụ rất nặng nề của Giám mục cách hăng say, nhất là để tâm đến tổ chức giới trẻ theo giới răn của Chúa, đến ơn gọi Linh Mục và nhất là đến mục vụ gia đình mà tương lai nhân loại lệ thuộc vào (…) và đấy cũng là trọng tâm của Giáo Hội và cộng đồng dân sự”. Lời dạy của Vị Cha Chung cũng đã là định hướng mục vụ của Giáo phận Đà Nẵng, với địa giới của thành phố Đà Nẵng trẻ trung và Tỉnh Quảng Nam giàu truyền thống, cũng rất cần những định hướng tốt và bền vững, trong các hoạt động hiện tại và tương lai.

1- Đào tạo nhân sự toàn diện và đa dạng:

Sống và minh chứng Đạo Thánh trong một môi trường và hoàn cảnh nhiều biến đổi cả về hình thái lẫn giá trị cuộc sống, đặc biệt trong bối cảnh xã hội đang coi trọng những phát triển về kinh tế, đời sống đức tin cũng cần được tổ chức và phát huy những khả năng thích nghi để lời rao giảng được đón nhận và chân lý đạo được bày tỏ một cách vững vàng và thuyết phục. Giáo phận Đà Nẵng, hướng tới một sự phát triển đa chiều, trong đó có những thành phần nhân sự cần được quan tâm cách ưu tiên và toàn diện.

a/ Củng cố và phát triển đời sống đức tin của cộng đoàn: Nền tảng của sự phát triển hoàn hảo chính là việc đào tạo con người – của Giáo hội và của Xã hội. Củng cố và phát huy vai trò của việc giáo dục đức tin qua việc tổ chức chương trình huấn giáo – giáo lý và các cử hành phụng vụ - cho mọi thành phần Dân Chúa, đặc biệt là giới trẻ, là một ưu tiên.

- Hoạch định và thực hiện các chương trình và hình thức giảng huấn phong phú và hiệu quả, để giáo lý Đạo Chúa có thể được hiểu và khắc ghi trong tâm khảm mọi tín hữu.

- Phát huy nền nếp sinh hoạt của các hình thức tông đồ giáo dân – hội đoàn và các ban nhóm mục vụ - đồng thời với huấn luyện nhân sự trưởng thành và hoạt động ngay trong chính môi trường sống của mỗi người, mỗi cộng đoàn.

- Chú trọng củng cố đời sống gia đình bằng việc giáo dục hôn nhân và gia đình, mục vụ cho những gia đình trẻ, những gia đình đang gặp khủng hoảng và có nguy cơ phân ly.

- Tạo cơ hội cho các bạn trẻ tham gia vào đời sống giáo xứ, giáo phận. Cách riêng, cũng tìm cách hỗ trợ cho các bạn trẻ có cơ hội học tập và theo đuổi các ngành nghề có khả năng phục vụ việc thăng tiến con người (tư vấn và huấn luyện, giáo dục, y tế, điều hành…)

b/ Cho ơn gọi đời sống thánh hiến: Nhu cầu nhân sự phục vụ càng ngày càng lớn, nhưng nhân sự đáp ứng theo đuổi ơn gọi đời sống thánh hiến – linh mục, tu sĩ – tại địa phương càng lúc càng giảm bớt. Sự thiếu vắng các môi trường đào tạo – tiểu chủng viện, đệ tử viện… -, vấn đề ổn định dân số nơi các gia đình hiện nay, trào lưu hưởng thụ và tìm kiếm những cơ hội tạo lập sự nghiệp nơi những người trẻ, những giới hạn về tâm lực và trí lực của giới trẻ trước các yêu cầu cao của lý tưởng Linh mục, tu sĩ, v.v… là những thách đố và cản trở cho công cuộc tìm kiếm và đào tạo ơn gọi linh mục tu sĩ cho việc rao giảng Tin mừng trong Giáo phận. Giải pháp cho vấn nạn này chính là sự đồng tâm và nỗ lực tham gia của mọi thành phần Dân Chúa.

- Khuyến khích và tạo điều kiện từ môi trường gia đình và giáo xứ, với việc chuẩn bị cho các thiếu niên, thanh niên lòng yêu mến và sự nhiệt tình với đời sống đạo đức, việc tông đồ.

- Phát huy những chương trình cấp giáo phận hỗ trợ ơn gọi thông qua việc tổ chức những dịp tìm hiểu, các hình thức hỗ trợ việc học vấn cho các thanh thiếu niên.

- Hoàn thiện chương trình đào tạo các ứng sinh chủng viện từ bậc học trung học cơ sở và phổ thông (tiểu chủng viện).

2- Mục vụ gia đình:

Những dấu hiệu và nguy cơ tiềm ẩn đối với việc duy trì khuôn mẫu gia đình công giáo truyền thống (chung thủy, thuận hòa, đạo hạnh và nền nếp…) càng lúc càng hiện rõ trong bối cảnh xã hội đang muốn biến đổi thành xã hội phát triển. Việc tìm kiếm những khả năng để thích nghi với những biến đổi của đời sống xã hội hầu ổn định và thăng tiến đời sống hôn nhân, gia đình theo ý định của Thiên Chúa và truyền thống của Giáo hội là những yêu cầu cấp thiết của toàn thể Dân Chúa.

- Giúp các thành viên trong gia đình có cơ hội học hỏi và thấm nhuần giáo lý về đời sống hôn nhân gia đình như hình ảnh của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm Hội Thánh.

- Phát huy việc tổ chức các sinh hoạt giáo xứ theo tinh thần “Cộng đồng cơ bản” để tạo sự liên đới giữa các gia đình trong giáo xứ và nối kết với các hoạt động của giáo xứ.

- Phát triển những hình thức hỗ trợ đời sống gia đình thông qua việc tham gia các phong trào, các nhóm sinh hoạt gia đình: nhóm “Thăng tiến hôn nhân”, gia đình “Khôi Bình” ; đặc biệt là hình thức “Gia đình Truyền Giáo” mà Đức Giám Mục Giáo phận đã từng khởi xướng cho các giáo xứ, giáo hạt.

- Chú trọng đến chương trình Giáo lý Hôn Nhân dành cho các bạn trẻ sắp lập gia đình và mở rộng cho các lớp cuối cấp của chương trình Giáo lý căn bản. Phong phú hóa hình thức giảng dạy, chương trình và nội dung giáo lý bám sát thực tế đời sống, mục vụ hậu hôn nhân, thêm nhiều lớp giáo lý hôn nhân theo khu vực, nghề nghiệp… là những nỗ lực cần tiếp tục thực hiện để bảo đảm cho đời sống gia đình hoàn thiện.

3- Đa dạng hóa các hoạt động mục vụ của Giáo hội:

Nỗ lực ổn định đời sống phát sinh những vấn nạn mới trong cộng đoàn Dân Chúa: người nhập cư, tình trạng tạm dung của sinh viên học sinh và công nhân, người già, người neo đơn-cơ nhỡ, người khuyết tật… Chấp nhận tình trạng hiện hữu để mở ra những đường hướng và thể cách mục vụ đòi hỏi cả sự quan tâm lẫn khả năng nghiên cứu các giải pháp để hỗ trợ cho những thành phần đặc biệt này.

- Tái cấu trúc và tu chỉnh những cơ chế và nguyên tắc điều hành, đặc biệt cho những người nhập cư và tạm dung. Giáo phận không chỉ tổ chức các thánh lễ riêng theo điều kiện thời gian và công việc của họ, mà còn giúp họ hòa nhập với cộng đoàn giáo xứ, đoàn thể và các sinh hoạt của những nơi họ đang sinh sống và làm việc. Điều này cần đến sự đồng thuận chung của những người có trách nhiệm là các chủ chăn và các thành viên tông đồ giáo dân của các giáo xứ, các hội dòng… trong việc đón nhận, tạo điều kiện cho việc sống đạo và nhận lãnh các ơn ích của Chúa. Những nguyên tắc mang tính áp đặt trong việc điều hành (giáo xứ, hội đoàn…) cũng cần thiết phải được sửa đổi, tạo khả năng mời gọi tham gia vào đời sống giáo hội nơi những thành viên mới này.

- Phát huy nội lực bằng việc mời gọi ý thức liên đới nơi mọi thành phần Dân Chúa, hướng tới cách riêng cho việc chăm sóc mục vụ những người già cả, neo đơn, cơ nhỡ, khuyết tật… trong cộng đoàn và trong cộng đồng. Tiếp tục những chương trình bác ái liên đới, như chương trình “Căn nhà Đồng Tâm” hỗ trợ xây dựng nhà cho những gia đình trong các vùng bão lụt, chương trình liên kết các giáo xứ thành phố và miền quê…

- Khuyến khích việc tổ chức những nhóm chuyên biệt để phụ trách và nghiên cứu tiếp cận những nhu cầu cần đáp ứng của cộng đoàn Dân Chúa và cộng đồng dân sự (những cơ sở tư vấn hôn nhân gia đình, nuôi dạy trẻ khuyết tật, người già cả…, chăm sóc những bệnh nhân HIV/AIDS, v.v…). Cũng lưu ý đến việc xây dựng những cơ sở vật chất phục vụ cho các công tác chuyên biệt này.

4- Khắc họa rõ nét hình ảnh Hội Thánh trong mọi hoạt động của cộng đoàn Dân Chúa:

- Đường hướng “Hiệp nhất – Yêu thương – Loan báo Tin Mừng” của Đại Hội Dân Chúa Giáo Phận Đà Nẵng năm 2012, dịp Cử hành Năm Thánh mừng Kim Khánh thành lập Giáo Phận cần được phát huy từ chính những nhân sự và tổ chức “hoạch định” các chương trình mục vụ cho toàn Giáo phận. Tính chuyên biệt của từng Ban Mục Vụ cần được cụ thể hóa bằng các chương trình hằng năm, đặc biệt trong những thời điểm mạnh của năm Phụng vụ. Sự liên kết hoạt động của các ban Mục vụ cũng cần được đề cao để mọi chương trình mục vụ có thể đạt đến hiệu quả cao nhất và có thể tới được mọi thành phần Dân Chúa trong toàn Giáo phận.

- Phương thế “Chứng nhân” thể hiện qua mọi hoạt động của từng cá nhân Kitô hữu, từng Cộng đoàn Dân Chúa chắc chắn là giải pháp thuyết phục nhất để minh chứng đức tin và các giá trị Kitô giáo cho mọi người, đặc biệt là những anh chị em lương dân trong cộng đồng xã hội địa phương. Những hành động cụ thể thấm đẫm đức tin Công giáo của từng cá nhân thuộc mọi thành phần Dân Chúa cũng cần được đề cao và phát huy cùng với những sáng kiến “chứng tá” thích hợp trong mọi hoàn cảnh, thời điểm.

- Những phương pháp và phương tiện truyền thống và hiện đại nhằm chuyển tải Tin Mừng và trình bày các giá trị đời sống Kitô giáo (nhân ái, liên đới, hiếu thuận, quảng đại, lạc quan, v.v…) cần được nghiên cứu và áp dụng trong mọi chương trình mục vụ để thực sự sứ điệp của Chúa Kitô và Hội Thánh có thể thấu đạt tâm thức và nhịp sống tôn giáo của mọi tín hữu trong toàn Giáo phận, nhất là trong các thời điểm Tin Mừng và Giá trị Kitô giáo có thể bị hiểu lầm hoặc phai nhạt trong đời sống xã hội nói chung và sinh hoạt tôn giáo nói riêng.

Sắc lệnh “Tông Đồ Giáo Dân” của Công đồng Vatican II đã viết: “Giáo dân đem Tin Mừng thấm nhuần và làm hoàn hảo những công việc trong phạm vi trần thế… Để qua chính công việc trần thế thành chứng tá sáng tỏ về Chúa Kitô và góp phần vào công trình cứu độ” (SL.TĐ/GD, số 2). Ý thức về những chuyển biến (thuận tiện và thách đố) của cuộc sống hiện nay, đồng thời với xác tín trách nhiệm rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng trong chính thế giới đang sống, mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo phận Đà Nẵng vẫn tiếp tục phát huy truyền thống sống đạo trung kiên, tìm kiếm mọi cơ hội để rao giảng và minh chứng đức tin trong hoàn cảnh xã hội này.

Cha Antôn Trần Văn Trường, nguyên Tổng Đại Diện Giáo phận Đà Nẵng, đã kết thúc bài tiểu luận về Đà Nẵng “40 năm Giáo phận, 40 năm Công đồng Vatican II” (vào dịp kỷ niệm 40 năm thành lập Giáo phận năm 2003) đã có những nhận định về Giáo phận, cũng là những suy nghĩ khi nhìn lại lịch sử Giáo phận và hướng tới tương lai, như sau:

Ra khỏi Tù Rôma, Thánh Phaolô đi giảng tiếp, nhưng khác trước nhiều: vì tư tưởng Phaolô thời gian ngồi tù đã đi vào những chiều kích mới, vượt xa ranh giới đối đầu với Lề Luật, với Hi-lạp ; bây giờ là với con người, với thế giới vạn vật, thế giới tạo dựng. (Xem Ngục thư Êphêsô).

Đi đày Babylon về, Do thái giáo mới trở thành tôn giáo thực thụ: “Giavê của Israel” trở thành Thiên Chúa muôn dân. Một khái niệm Giáo Hội vượt thời gian không gian bắt đầu thành hình. Lòng đạo đức đã đi vào chiều sâu tôn giáo: khiêm nhu, khó nghèo ; báo trước Tám mối phúc thật.

Giáo phận Đà Nẵng cũng như Giáo hội hoàn vũ sau Vatican II có thật thấm thía bài học Sa mạc, để dấn thân, bất chấp mọi sự, để tiến về Đất Hứa, hay lại sa chước cám dỗ Củ hành củ tỏi của Êgyptô!

Giáo lý tình thương tiền nhân tiếp nhận
Tin Mừng cứu độ hậu thế truyền rao.
Lm. Pr. Hoàng Gia Thành
BTT/GP

(Nguồn: GPĐN)