MỘT NGÀY LÀ CHỦNG SINH GIOAN - MÃI MÃI THUỘC GIA ĐÌNH GIOAN

Lược sử Giáo phận Đà Nẵng và Giáo hội Việt Nam - Phần II

II. NHỮNG GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN

1. Thời kỳ sơ khai và thành lập

- Ngày 18.01.1963, Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan XXIII đã tuyên sắc “In Vitae Naturalis Similitudinem”, thiết lập tân Giáo phận Đà Nẵng, tách ra từ Giáo phận Quy Nhơn, và bổ nhiệm Đức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi làm Giám mục Tiên khởi Giáo phận mới Đà Nẵng. Lễ nhiệm chức Giám mục Chính tòa của tân giáo phận diễn ra vào ngày 01.5.1963.

- Tân Giáo phận bao gồm Thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Tín và tỉnh Quảng Nam, với tổng diện tích là 11.555 km2, dân số là 1.100.000 người, Tân Giáo phận có 35 địa sở, 365 họ nhánh với hơn 84.000 giáo dân và 15.000 dự tòng, 40 linh mục và một số ít nam nữ tu sĩ.

2. Các giai đoạn phát triển

a. Từ 1963-1975:

Đây là thời gian xây dựng các cơ sở vật chất (tòa giám mục, tiểu chủng viện, đại chủng viện, nhà hưu dưỡng Linh mục, bệnh viện, trường học…) và khởi sự các cơ chế hoạt động mục vụ và truyền giáo của tân giáo phận (các đoàn thể Công giáo tiến hành, Hội đồng mục vụ giáo xứ, giáo phận và các ủy ban mục vụ chuyên biệt)..

Trong thời gian 12 năm xây dựng của thời kỳ này, thống kê năm 1975 cho thấy Giáo phận có 94.580 giáo dân sinh hoạt trong 35 giáo xứ thuộc 4 giáo hạt là Đà Nẵng, Hòa Khánh, Hội An, Tam Kỳ. Con số linh mục đã tăng lên 105 vị, trong đó có 6 linh mục ngoại quốc, nhiều linh mục trở về phục vụ Giáo phận sau thời gian được gửi đi du học tại Ý, Pháp, Mỹ… Con số đại chủng sinh là 73 thầy, theo học tại Giáo hoàng học viện Đà Lạt, Đại Chủng viện Xuân Bích Huế, Đại Chủng viện Hòa Bình tại Giáo phận, cùng với 238 tiểu chủng sinh các lớp tại Tiểu Chủng viện Thánh Gioan Đà Nẵng. Con số tu sĩ nam nữ cũng gia tăng đáng kể, Giáo phận có 8 nam tu sĩ thuộc các Dòng Đồng Công, Gioan Thiên Chúa và Salesien, với 308 nữ tu thuộc các Dòng Thánh Phaolô, Mến Thánh Giá Quy Nhơn, Mến Thánh Giá Huế, Con Đức Mẹ Đi Viếng, Con Đức Mẹ Vô Nhiễm,Thừa Sai Bác Ái Vinh Sơn, Phan-xi-cô.

Điểm đặc biệt trong giai đoạn phát triển đầu tiên này là công tác xã hội rất được chú trọng, một phần do hoàn cảnh chiến tranh, dân số thành phố tăng cao. Trong phúc trình của Ban Văn hoá Giáo dục năm 1974, toàn Giáo phận có 16 trường trung học với 11.170 học sinh, 40 trường tiểu học với 23.190 học sinh. Ngoài ra, Giáo phận cũng có các cơ sở giáo dục hướng nghiệp do cơ quan Caritas tổ chức, một trường hướng nghiệp với quy mô lớn được khởi công xây dựng từ năm 1974 tại Hòa Khánh nhưng chưa hoàn thành. Về y tế, Giáo phận cũng có Dường đường Thánh Phaolô do các nữ tu Phaolô đảm trách. Đức Cha Phêrô Maria cũng tiến hành xây một bệnh viện lớn sát Toà Giám mục, vừa hoàn tất khi chiến tranh kết liễu, ngành quân đội xử dụng cho đến ngày nay. Trong giới công giáo cũng có một số bệnh viên tư nhân như Bệnh viện Têrêxa, Bảo sanh viện Khánh vân. Ngoài ra, còn có các cô nhi viện, nhà dưỡng lão, các trại tạm cư ... Truyền thông xã hội cũng được quan tâm với việc thành lập một cơ sở in ấn riêng của giáo phận (Nhà in Thanh Công) từ năm 1962 tại Giáo xứ An Hoà.

b. Từ 1975-1988:

Từ sau ngày 29/3/1975, thành phố và giáo phận Đà Nẵng bước vào một giai đoạn mới, dười một thể chế chính trị mới – xã hội chủ nghĩa - ảnh hưởng đến mọi lãnh vực kinh tế, xã hội và tôn giáo. Giáo phận Đà Nẵng cũng khởi đầu một thời kỳ sống và minh chứng đức tin mới với định hướng mục vụ “Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc” theo Thư Chung 1980 của HĐGMVN: Trước hết, hầu hết các cơ sở giáo dục và từ thiện của Giáo phận đều bàn giao cho Chính quyền địa phương quản lý xử dụng. Tiểu Chủng viện Thánh Gioan ngưng sinh hoạt. Các đại chủng sinh của giáo phận tại Đại Chủng viện Hoà Bình tại Hoà Khánh được chuyển về Giáo xứ Phú Thượng cho đến năm 1982 thì cũng giải thể. Nhiều linh mục và giáo dân của Đà Nẵng cũng đã theo dòng người di tản và di cư đến nhiều nơi khác trong và ngoài nước khiến cơ cấu và sinh hoạt của các xứ đạo trong giáo phận cũng bị biến đổi – giải thể hoặc sáp nhập lại với nhau. Ước tính khoảng 40-50 nghìn giáo dân rời khỏi giáo phận. Số giáo dân còn lại khoảng 40 nghìn người.Hoạt động tôn giáo, việc mục vụ, việc đi lại thăm viếng và ban các bí tích gặp nhiều khó khăn và hạn chế, đặc biệt, công tác đào tạo nhân sự, việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển linh mục rất khó khăn.

Đây cũng là giai đoạn chuyển giao giáo vụ giữa vị Giám mục tiên khởi Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi (qua đời ngày 21/1/1988) và vị giám mục phó F.X Nguyễn Quang Sách (được tấn phong ngày 06/6/1975) nhiệm chức từ ngày 21/1/1988.

c. Từ 1988-2000:

Đây là khoảng thời gian thuận tiện để giáo phận tiến hành việc xây dựng và trùng tu những ngôi nhà thờ bị xuống cấp do thời gian hoặc bị chiến tranh tàn phá: Nhà thờ giáo họ Phước Ấm (1988), Chính Trạch, Nhượng Nghĩa (1991), An Trường, Ngọc Sơn (1992), Hà Lam, Hội Yên, Thuận Yên, (1993), Tam Kỳ, Phú Hương, Chiêm Sơn (1994), Ái Nghĩa, Lộc Hòa, Thanh Bình (1995), Hoằng Phước, Tam Thành, Hoà Trung (1996), La Nang, Mỹ Xuyên (1997), Tam Lộc, Trung Phước (1998), Thanh Đức, Hòa Lâm, Hoà Cường (2000). Các hoạt động tôn giáo và việc đào tạo phát triển nhân sự cũng được tổ chức và đạt kết quả ban đầu. Từ năm 1988-1998, Giáo phận đã có thêm 15 linh mục mới, tất cả đều là những chủng sinh của Giáo phận từ trước năm 1975. Số tân linh mục dần dần đáp ứng nhu cầu thiếu hụt trầm trọng trước đây.

- Ngày 21.9.1994, Đại chủng viện Huế được tái hoạt động sau 20 năm bị đóng cửa và tiếp tục được trao cho các linh mục Xuân Bích việc đào tạo linh mục tương lai cho 3 giáo phận Huế, Đà Nẵng, Kontum. Cha Phaolô Nguyễn Bình Tĩnh, thuộc Hội Xuân Bích Việt Nam, quản xứ An Hải, được Tỉnh Hội Xuân Bích Pháp chọn làm Giám đốc Chủng viện Huế.

d. Từ 2000 đến 2014:

Cùng với Giáo hội hoàn vũ cử hành Đại Năm Thánh 2000, kỷ niệm 2000 năm Chúa Giêsu sinh ra, Giáo phận Đà Nẵng bước vào một giai đoạn phát triển khác, với những định hướng mang tính toàn diện bao gồm việc mục vụ và loan báo Tin Mừng. (Khánh Thọ, Việt An, Vân Đoã, Chợ Chiều, Đông Vinh và An Ngãi Đông), nâng tổng số giáo xứ trong Giáo phận lên đúng 50.. Từ năm 2008, công tác phát triển ơn gọi cũng được chú trọng với việc chính thức tập trung và thành lập Cộng đoàn dự tu – tiền Chủng viện với Thánh hiệu Gioan Tông đồ, tiếp nối truyền thống của Tiểu Chủng viện Thánh Gioan trước năm 1975. Một số đoàn thể tông đồ, bác ái cũng đã được tái lập và mở rộng hoạt động tại nhiều giáo xứ trong giáo phận: Hùng Tâm Dũng Chí, Thiếu Nhi Thánh thể, Caritas, chương trình Thăng tiến Hôn nhân Gia đình (2010), Phong trào Cursillos (2012), giúp huấn luyện tông đồ giáo dân.

Ngoài ra, các chương trình bác ái xã hội, giáo lý cũng được phát động và thực hiện: Căn Nhà Đồng Tâm (sau trận siêu bão Xangsane để xây dựng những căn nhà chống bão cho các nạn nhân và người nghèo). Nhờ sự hỗ trợ và cộng tác của nhiều người, nhiều tổ chức, trong vòng 2 năm, chương trình đã xây dựng được 517 căn nhà), Chương trình giáo lý cộng đồng cho toàn giáo phận nhằm đưa giáo lý của Hội Thánh đến cho mọi người qua việc học hỏi chung tại mỗi giáo xứ vào các Thánh lễ ngày Chúa Nhật. Đây cũng là chương trình nhân dịp Giáo phận bước vào 3 năm chuẩn bị mừng Kim Khánh Giáo phận (năm 2013).

Giáo phận đã ký hợp đồng mục vụ với 05 Hội dòng: Dòng Chúa Cứu Thế nhận phục vụ tại Giáo xứ Tiên Phước (năm 2010), Dòng Ngôi Lời nhận Giáo xứ Trung Phước, Tu hội Truyền giáo Thánh Vinh Sơn nhận Giáo xứ Hội Yên, Dòng Thánh Thể chính thức nhận Trung tâm Mục vụ Di dân tại Giáo họ An Ngãi Đông (năm 2011), Dòng Đồng Công nhận Giáo xứ Thuận Yên (năm 2012).

Đây cũng là thời gian chuyển giáo giáo vụ giữa Đức Giám mục Ph.X. Nguyễn quang Sách (giám mục chính tòa thứ II) và Đức Giám mục Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh (tấn phong ngày 10/5/2000 và nhiệm chức ngày 06/11/2000). Tiếp theo sau đó, vào ngày 04/8/2007 giữa Đức Giám mục Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh và Đức tân Giám mục chính tòa (thứ IV) Giuse Châu ngọc Tri.

- Đại Hội Dân Chúa Giáo phận năm 2012 được tổ chức từ ngày 17-19/10/2012 tại Trung tâm Mục vụ Giáo phận. Đại hội quy tụ 282 đại biểu gồm giám mục, linh mục, tu sĩ chủng sinh và giáo dân, đại diện các giáo xứ, dòng tu và ban ngành đoàn thể, để hoạch định chương trình mục vụ cho Giáo phận trong tương lai, nhân kỷ niệm Kim Khánh thành lập Giáo phận .

- Được Toà Thánh ban phép, ngày 18/01/2013, Giáo phận tổ chức Đại lễ khai mạc Năm Thánh nhân kỷ niệm 400 năm loan báo Tin Mừng và 50 năm thiết lập Giáo phận tại Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu. Năm Thánh được kéo dài đến ngày 18/01/2015, ngày kỷ niệm 400 năm truyền giáo (18/01/1615). Ngày 01/5/2013, kỷ niệm đúng 50 năm Đức Giám mục Tiên khởi về nhiệm chức Giám mục Giáo phận mới Đà Nẵng, Giáo phận long trọng mừng Kim Khánh thành lập tại Nhà thờ Chính Toà với thánh lễ đại trào do Đức TGM Léopoldo Girelli, Đại diện Toà Thánh tại Việt Nam chủ sự và sự hiện diện của một số các giám mục Việt Nam.

3. Hiện tình

Giáo phận Đà Nẵng theo thống kê năm 2013 có 50 giáo xứ, 46 giáo họ, phân bố trong 5 giáo hạt thuộc tỉnh Quảng Nam và Thành phố Đà Nẵng. Số giáo dân là 67.673 trên tổng số dân trong cùng địa bàn và cùng thời kỳ là 2.384.672 người, chiếm tỉ lệ khiêm tốn là 2,8%. Tổng số linh mục trong Giáo phận là 93 vị, trong đó có 78 linh mục giáo phận và 15 linh mục đến từ các Hội dòng. Hiện có 218 nữ tu thuộc các hội dòng đang phục vụ tại Giáo phận và 31 đại chủng sinh đang theo học tại Đại Chủng viện Huế hoặc đang thực tập. Về Giáo lý, hiện nay có 806 giáo lý viên phụ trách việc giảng dạy cho gần 10 nghìn học viên giáo lý các cấp. Năm 2013, số tân tòng là 628 người.

II. KẾT LUẬN

Sắc lệnh “Tông Đồ Giáo Dân” của Công đồng Vatican II đã viết : “Giáo dân đem Tin Mừng thấm nhuần và làm hoàn hảo những công việc trong phạm vi trần thế… Để qua chính công việc trần thế thành chứng tá sáng tỏ về Chúa Kitô và góp phần vào công trình cứu độ” (SL.TĐ/GD, số 2). Ý thức về những chuyển biến (thuận tiện và thách đố) của cuộc sống hiện nay, đồng thời với xác tín trách nhiệm rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng trong chính thế giới đang sống, mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo phận Đà Nẵng vẫn tiếp tục phát huy truyền thống sống đạo trung kiên, tìm kiếm mọi cơ hội để rao giảng và minh chứng đức tin trong hoàn cảnh xã hội này.

Cha Antôn Trần văn Trường, nguyên Tổng Đại Diện Giáo phận Đà Nẵng, trong phần kết thúc bài tiểu luận về Đà Nẵng “40 năm Giáo phận, 40 năm Công đồng Vatican II” (vào dịp kỷ niệm 40 năm thành lập Giáo phận năm 2003) đã có những nhận định về Giáo phận, cũng là những suy nghĩ khi nhìn lại lịch sử Giáo phận và hướng tới tương lai, như sau :

“Ra khỏi Tù Rôma, Thánh Phaolô đi giảng tiếp, nhưng khác trước nhiều : vì tư tưởng Phaolô thời gian ngồi tù đã đi vào những chiều kích mới, vượt xa ranh giới đối đầu với Lề Luật, với Hi-lạp ; bây giờ là với con người, với thế giới vạn vật, thế giới tạo dựng. (Xem Ngục thư Êphêsô).

“Đi đày Babylon về, Do thái giáo mới trở thành tôn giáo thực thụ: “Giavê của Israel” trở thành Thiên Chúa muôn dân. Một khái niệm Giáo Hội vượt thời gian không gian bắt đầu thành hình. Lòng đạo đức đã đi vào chiều sâu tôn giáo: khiêm nhu, khó nghèo; báo trước Tám mối phúc thật.

“Giáo phận Đà Nẵng cũng như Giáo hội hoàn vũ sau Vatican II có thật thấm thía bài học Sa mạc, để dấn thân, bất chấp mọi sự, để tiến về Đất Hứa, hay lại sa chước cám dỗ Củ hành củ tỏi của Êgyptô!”

“Giáo lý tình thương tiền nhân tiếp nhận
Tin Mừng cứu độ hậu thế truyền rao”

BTT/GP

(Nguồn: GPĐN)