Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi 1: Đâu là lý do cho việc kiêng thịt ngày Thứ Tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh? Có bất kỳ bối cảnh lịch sử nào cho việc này không? Con ngạc nhiên về sự kết nối giữa cái chết của Chúa Giêsu và việc kiêng thịt. Xin cha giúp con hiểu rõ vấn đề. - F. A., Ibadan, Nigeria
Hỏi 2: Tại sao người Công Giáo chúng ta bị cấm ăn thịt trong Mùa Chay? Có truyền thống nào hoặc cơ sở Kinh Thánh cho việc này không? - D. O., Philippines
Đáp: Các câu hỏi tương tự đến với tôi khá thường xuyên, và do đó câu trả lời hiện nay của chúng tôi sẽ sử dụng lại phần trả lời trước đây, nhất là từ năm 2006 đến năm 2009.
Trước tiên, thật là cần thiết để phân biệt giữa luật ăn chay, mà người Công Giáo Rôma áp dụng vào thứ Tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh, và quy định về kiêng thịt vốn là thường xuyên hơn.
Trong truyền thống của Giáo Hội, các luật liên quan đến việc ăn chay là chủ yếu nhằm xác định những gì liên quan đến số lượng thực phẩm được phép ăn vào các ngày ăn chay, trong khi những người ra luật ăn chay nhắc nhở đến chất lượng thức ăn.
Luật ăn chay có nghĩa là người ta được phép ăn một bữa ăn đầy đủ trong ngày đó, và hai bữa ăn nhẹ, phù hợp với tập tục địa phương về số lượng và loại thực phẩm.
Trong khi việc tiêu thụ các thực phẩm rắn giữa các bữa ăn là bị cấm, các chất lỏng, như trà, cà phê và nước trái cây, có thể được dùng bất cứ lúc nào.
Luật kiêng thịt cấm ăn các sản phẩm thịt, tủy và máu của động vật và các loài chim làm thành thịt.
Trong thời trước đây, luật kiêng thịt cũng cấm các loại thực phẩm có nguồn gốc từ động vật, chẳng hạn sữa, bơ, phô mai, trứng, mỡ và nước sốt làm từ mỡ động vật. Việc hạn chế này không còn hiệu lực trong nghi lễ Rôma hiện nay nữa.
Rau quả cũng như cá và động vật máu lạnh tương tự (ếch, trai, rùa, ...) có thể được ăn. Động vật lưỡng cư được chuyển xuống danh mục mà chúng chịu sự tương đồng nổi bật nhất.
Sự phân biệt này giữa động vật máu nóng và động vật máu lạnh có lẽ là lý do tại sao thịt trắng như gà không thể thay thế cá vào các ngày kiêng thịt.
Việc phân loại này khó có thể ngăn cản tất cả nghi ngờ liên quan đến luật kiêng thịt. Nhưng tập tục địa phương và Giáo quyền địa phương thường cung cấp một cơ sở đầy đủ để giải quyết vấn đề thắc mắc ấy.
Việc kiêng thịt là chặt chẽ hơn về mặt kỹ thuật trong thời trước đây, và áp dụng cho mỗi ngày của Mùa Chay. Tuy nhiên, việc tuân giữ luật hiện nay đã và đang giới hạn trong các trường hợp, để không mang gánh nặng không thể chịu nổi.
Đó là lý do tại sao các người bệnh, người quá nghèo hoặc người làm việc nặng (hoặc người gặp khó khăn trong việc mua cá) không buộc phải tuân giữ luật kiêng thịt, miễn là điều kiện như vậy được áp dụng.
Sự đa dạng trong tập tục, khí hậu và giá lương thực, cũng điều chỉnh luật kiêng thịt.
Thí dụ, một đặc ân cho phép các người ở Mỹ không kiêng thịt trong bữa ăn chính của họ trong Mùa Chay vào các ngày thứ Hai, thứ Ba, thứ Năm và thứ Bảy.
Một đặc ân, ban hành ngày 3-8-1887, cho phép sử dụng mỡ động vật trong việc làm món cá và và rau quả trong tất cả các bữa ăn và vào tất cả các ngày. Các đặc ân tương tự đã được cấp cho các nước khác.
Mặc dù trong thời trước đây, các ngày sám hối và thời gian đòi hỏi ăn chay và/hoặc kiêng thịt là nhiều hơn, Giáo luật hiện hành (Các điều 1250-1253) đã giảm bớt các ngày ấy.
Điều 1250 khẳng định: "Những ngày và mùa Sám Hối trong Giáo Hội toàn cầu là các ngày thứ sáu trong năm và mùa chay” (Bản dịch Việt ngữ của của HĐGMVN).
Điều 1251: "Vào các ngày thứ sáu trong năm, nếu không trùng với một trong những ngày lễ trọng, thì phải kiêng thịt hoặc phải kiêng một thức ăn nào khác, theo quy định của Hội Đồng Giám Mục; nhưng phải kiêng thịt và ăn chay trong ngày thứ tư Lễ Tro và ngày thứ sáu kính cuộc Thương Khó và tử nạn của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta" (Bản dịch, như trên).
Hội Đồng Giám Mục có thể thay thế việc kiêng thịt bằng thức ăn khác ở các nước, mà tại đó việc ăn thịt là không phổ biến, hoặc vì một lý do chính đáng nào khác.
Hội Đồng Giám Mục cũng được hưởng quyền rộng, trong ánh sáng của Điều 1253: "Hội Đồng Giám Mục có thể ấn định rõ ràng hơn những thể thức ăn chay và kiêng thịt, cũng như những hình thức Sám Hối khác, nhất là những công việc bác ái và những việc đạo đức có thể thay thế toàn phần hay một phần việc kiêng thịt và ăn chay" (Bản dịch, như trên).
Trong các nước như Mỹ và Ý, các Giám Mục khuyên kiêng thịt vào tất cả các ngày Thứ Sáu trong năm. Việc kiêng thịt là bắt buộc trong tất cả các ngày Thứ Sáu Mùa Chay. Các Giám Mục của Vương Quốc Anh đã có một quy định tương tự, nhưng cách đây vài năm, Hội Đồng quyết định trở lại việc thực hành truyền thống kiêng thịt vào tất cả các ngày Thứ Sáu trong năm.
Việc kiêng thịt là bắt buộc từ 14 tuổi; và việc ăn chay trở thành bắt buộc từ 18 tuổi cho đến khi tròn 59 tuổi.
Hầu hết các Giáo Hội Đông Phương, cả Công Giáo và Chính Thống Giáo, có luật khắt khe hơn về ăn chay và kiêng thịt, và duy trì luật cấm dùng sữa và sản phẩm gia cầm.
Trong truyền thống Byzantine, thí dụ, việc ăn chay Mùa Chay bắt đầu sau "Kinh chiều Tha thứ" vào chiều Chúa Nhật Cheesefare (Tạm biệt phó mát, tức Chúa Nhật trước thứ Tư Lễ Tro), với sự xức dầu cho tín hữu, chứ không xức tro.
"Cheesefare" nhắc đến sự “tạm biệt” với các sản phẩm sữa trong chế độ ăn uống của các tín hữu trong suốt thời gian Ăn Chay Thánh. Chúa Nhật trước đó là Chúa Nhật Meatfare (Tạm biệt thịt), nói lên sự tạm biệt thịt trong chế độ ăn uống.
Việc này tiếp tục (càng xa càng tốt cho người Rước lễ) trong suốt Mùa Chay. Tuần Thánh là nghiêm ngặt hơn – ăn chay nhiểu hơn kiêng thịt nữa.
Đồng thời, việc cử hành phụng vụ Thánh Thể bị cấm - nhưng các tín hữu rước lễ trong Phụng vụ đặc biệt như giờ Kinh Chiều của Lễ vật tiền thánh hiến, vốn sử dụng Mình Thánh đã được truyền phép trong Chúa Nhật trước đó.
Mục đích của luật kiêng thịt là để giáo dục chúng ta trong luật thiêng liêng cao hơn của đức ái và sự tự chủ.
Mục đích thiêng liêng này cũng có thể giúp chúng ta hiểu được lý do để loại trừ thịt vào những ngày sám hối. Có một niềm tin phổ biến rằng thịt có nghĩa là khiêu gợi và kích thích các dục vọng cơ bản của con người. Việc từ bỏ các thực phẩm thịt được coi là một phương tiện tuyệt vời chọ sự chinh phục bản thân bướng bỉnh và hướng cuộc đời của mình vào Thiên Chúa.
Mục đích khổ hạnh và thiêng liêng của việc ăn chay và kiêng thịt cũng có thể giúp chúng ta hiểu được lý do tại sao các việc này đã luôn được gắn với việc bố thí.
Bằng cách này, nó không có nghĩa là bỏ bò bít tết để ăn tôm hùm và trứng cá muối. Ý tưởng cùa việc kiêng thịt là ưa thích một chế độ ăn uống ít xa hoa và đơn giản hơn so với bình thường.
Vì thế chúng ta có dư chút tiền của để giúp đỡ cho những người kém may mắn hơn mình, và cũng rèn luyện bản thân thoát khỏi ách nô lệ của các thú vui vật chất. Ngay cả một người Công Giáo ăn chay trường cũng có thể thực hành kiêng thịt bằng cách thay thế một thức ăn đắt tiền hơn trong chế độ ăn uống, bằng một cái gì đó đơn giản hơn.
Trong thế giới phát triển, mảng rộng lớn của các loại thực phẩm có sẵn tại các siêu thị địa phương làm cho việc sống luật kiêng thịt là tương đối dễ dàng. Trong hầu hết các trường hợp, người ta có thể từ bỏ thịt và vẫn duy trì một chế độ ăn uống đơn giản và cân bằng.
Tuy nhiên, trong khi trung thành với luật này, chúng ta luôn phải phấn đấu để thâm nhập các lý do bên trong cho việc ăn chay và kiêng thịt, chứ không ngừng ở bình diện hời hợt của luật vì luật mà thôi.
Các động cơ thiêng liêng cho việc thực hành kiêng thịt đã được diễn tả thật tuyệt vời bởi thánh Âu Tinh trong Bài Giảng về Cầu nguyện và Ăn chay: việc kiêng thịt thanh luyện tâm hồn, nâng cao tâm trí, làm cho xác thịt phụ thuộc vào tinh thần, sinh ra một tâm hồn khiêm nhường và thống hối, phân tán các đám mây của nhục dục, dập tắt ngọn lửa của sự ham muốn, và kích động ánh sáng thật của đức khiết tịnh.
Điều này được tóm tắt trong Kinh Tiền Tụng IV của Mùa Chay: "Qua việc chay tịnh thân xác, anh chị em kiềm chế các lỗi lầm, nâng cao tâm hồn, và dành được đức hạnh và phần thưởng của nó".
Nói tóm lại, Giáo Hội qui định việc ăn chay và kiêng thịt, để giúp giải thoát chúng ta khỏi xiềng xích của nô lệ tội lỗi. Thay vì là một nghĩa vụ nặng nề, đó là một tiếng kêu của sự tự do khỏi tất cả những gì liên kết chúng ta với chính bản thân và dục vọng của chúng ta. (Zenit.org)
Nguyễn Trọng Đa
(Nguồn: conggiao.info)