MỘT NGÀY LÀ CHỦNG SINH GIOAN - MÃI MÃI THUỘC GIA ĐÌNH GIOAN

Toàn văn bài phỏng vấn Đức Phanxicô trên chuyến bay trở về từ Armenia


Trên chuyến bay từ Armenia về Roma, hôm chúa nhật, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã có buổi phỏng vấn trên máy bay như lệ thường với các ký giả.

Ngài nói lên suy nghĩ về nhiều vấn đề, từ chuyến đi Armenia, đến các chuyến tông du sắp tới ở Azerbaijan và Ba Lan, đến vai trò của Đức Giáo hoàng Danh dự, sự hiệp nhất Kitô, phong trào kháng cách, Brexit, ý tưởng về nữ phó tế, và việc Giáo hội phải xin lỗi vì những kỳ thị với người đồng tính.

Sau đây là toàn văn bài phỏng vấn:

Cha Lombardi: Trọng kính Đức Thánh Cha, chúng con xin cảm ơn vì được tham gia trong chuyến công du khá ngắn nhưng đầy mãnh liệt này. Chúng con vui vì được đồng hành với cha, và với sự nhiệt tình của cha, bây giờ chúng con muốn đưa ra một vài câu hỏi. Chúng con có một số người đã đăng ký, và như thường lệ, xin bắt đầu với những ký giả từ Armenia, những người được ưu tiên. Trước hết là Artur Grygorian, từ Armenian Public Television.

Đức Giáo hoàng Phanxicô: Cha cảm ơn vì sự hỗ trợ của anh chị em trong chuyến hành trình này, tất cả mọi việc tốt anh chị em làm cho mọi người… truyền thông mọi chuyện thật tốt đẹp. Chúng là những tin tức tốt… và tin tốt luôn tốt lành. Cảm ơn rất nhiều. Cha cảm ơn.

Artur Grygorian, từ Armenian Public Television: Thưa Đức Thánh Cha, được biết cha có nhiều bạn người Armenia, hồi ở Argentina cha cũng có liên lạc với cộng đồng người Armenia ở đây. Trong ba năm qua, cha đã khơi dậy tinh thần Armenia. Vậy cảm giác, ấn tượng của cha thế nào? Và còn thông điệp của cha trong tương lai, những lời cầu nguyện của cha cho Armenia? Con xin cảm ơn.

Vâng, hãy nghĩ về tương lai rồi nói về quá khứ. Cha hi vọng công lý và hòa bình cho dân tộc này, và cha cầu nguyện xin như thế, bởi đây là một dân tộc can trường. Và cha cầu nguyện cho họ tìm được công lý và hòa bình. Cha biết rất nhiều người đang làm việc vì chính nghĩa này, và cha cũng rất hạnh phúc khi tuần trước thấy tấm hình tổng thống Putin và hai tổng thống của Armenia và Azerbaijan… ít nhất là họ đang nói chuyện với nhau. Và còn với Thổ Nhĩ Kỳ và tổng thống Armenia, trong bài diễn văn chào đón ngài tổng thống đã có can đảm nói rằng chúng ta hãy tiến tới một sự đồng thuận, tha thứ cho nhau, và hướng đến tương lai. Và đây là sự dũng cảm lớn lao đối với một dân tộc đã chịu quá nhiều đau khổ, phải không nào? Đây là biểu tượng của dân tộc Armenia...

Hôm nay, khi cầu nguyện một lát, cha nhận ra điều này. Đây là sức sống của đá tảng và là sự trìu mến của người mẹ. Dân tộc này mang thập giá, những thập giá bằng đá, nhưng không mất đi sự trìu mến, nghệ thuật, âm nhạc, những ‘cung trầm bổng’ với lòng bao dung vô cùng mà chúng ta đôi khi không hiểu nổi. Một dân tộc đã chịu quá nhiều đau khổ trong lịch sử và chỉ có đức tin mới giúp họ đứng vững, bởi thật sự không phải ngẫu nhiên khi đây là quốc gia Kitô giáo đầu tiên. Đây là quốc gia Kitô giáo đầu tiên, bởi Chúa chúc lành cho họ, bởi dân tộc này có những vị thánh, các thánh giám mục, thánh tử đạo, và nhờ đó Armenia có một ‘làn da bằng đá’ có thể nói như thế, nhưng vẫn không mất đi sự trìu mến của trái tim người mẹ. Armenia cũng là người mẹ.

Và đó là cho câu hỏi thứ hai, bây giờ chúng ta nói về câu hỏi thứ nhất. Cha có quá nhiều liên hệ với người Armenia… cha thường đi với họ đến thánh lễ, cha có nhiều bạn người Armenia… có một chuyện cha không thường làm với những người khác, nhưng cha hay đi ăn tối với các bạn Armenia, mà bữa tối của các bạn thật thịnh soạn phải không nào. Những người bạn rất tốt, phải không? Một người bạn rất tốt là tổng giám mục Kissag Mouradian và Boghossian, một người Công giáo… nhưng với các bạn, việc thuộc Giáo hội Công giáo hay Giáo hội Tông tòa, không quan trọng bằng việc là người Armenia, và hiểu được điều này. Hôm nay, khi cha cử hành thánh lễ, tổng giám mục đã sắp xếp một người Argentina gốc Armenia, ngồi sát bên cha, để giải thích cho cha biết các nghi lễ và lời nói mà cha không rõ.

Jeannine Paloulian (Nouvelles d’Armenie): Tối hôm qua, trong buổi gặp gỡ cầu nguyện đại kết, cha đã hỏi về tiến trình hòa giải giữa quốc gia chúng con với Thổ Nhĩ Kỳ và Azerbaijan. Con muốn hỏi cha một câu đơn giản, bởi cha sắp đến Azerbaijan trong vài tuần nữa thôi, cha sẽ làm gì, cha sẽ cho Azerbaijan một dấu chỉ cụ thể nào như đã từng ở Armenia này?

Cha sẽ nói với người Azerbaijan về sự thật mà cha thấy được, về những gì cha cảm nhận và cha sẽ khích lệ họ. Cha đã gặp tổng thống Azerbaijan và nói chuyện với ông… cha cũng nói rằng đừng hòa bình chỉ vì một miếng đất nhỏ, bởi như thế là chuyện vặt vãnh, chuyện hơi mờ ám nữa, phải không? Cha nói thế cho tất cả những người Armenia và Azerbaijan… Có lẽ họ không thể đồng thuận về những con đường đi đến hòa bình, và đó chính là việc họ phải làm. Nhưng cha không biết nói gì thêm nữa… Cha sẽ nói rằng ngay lúc này, cha nghĩ thế, nhưng chúng ta phải luôn tích cực nỗ lực để tìm giải pháp có thể thành tựu, một giải pháp tiến tới.

Jean Luis de La Vassiere (AFP, Pháp): Thưa Đức Thánh Cha, đầu tiên con muốn cảm ơn cha cho con và cho Sebastien Maillard của tờ La Croix… chúng con đang chuẩn bị rời Roma, và chúng con muốn cảm ơn cha từ đáy lòng mình vì làn gió mùa xuân mà cha đã thổi vào Giáo hội… và con có một câu hỏi: tại sao cha quyết định bộc phát thêm từ ‘diệt chủng’ vào trong bài diễn văn tại dinh tổng thống? Về một chủ đề đau đớn như thế, cha có nghĩ nó hữu ích cho hòa bình trong khu vực phức tạp này?

Ở Argentina, khi nói về vụ thảm sát người Armenia, người ta luôn dùng từ ‘diệt chủng.’ Cha không biết từ nào khác. Ở nhà thờ chính tòa Buenos Aires, có một thập giá bằng đá ở bàn thờ thứ ba bên trái, để tưởng niệm những nạn nhân vụ diệt chủng Armenia. Hai tổng giám mục Armenia đến, Công giáo và Tông tòa, họ thánh hiến thập giá đá… cũng như Tổng Giám mục Tông Tòa trong nhà thờ Công giáo thánh Bartholomew làm một bàn thờ để kính nhớ thánh Bartholomew… nhưng luôn luôn… cha không biết từ nào khác. Cha chỉ biết từ này.

Khi đến Roma, cha nghe một từ khác: ‘Tội ác Lớn’ hay ‘bi kịch khủng khiếp,’ nhưng ở Armenia, cha không biết làm cách nào để nói ra ý này… và họ bảo cha rằng đừng, như thế là xúc phạm, đó là một cuộc ‘diệt chủng’ và cha phải nói như vậy. Cha luôn luôn nói về ba cuộc diệt chủng trong thế kỷ trước… luôn luôn là ba! Đầu tiên là ở Armenia, rồi của Hitler, và cuối cùng là của Stalin… có những cuộc diệt chủng nhỏ hơn, ở châu Phi nữa, nhưng xét theo hai cuộc thế chiến thì có ba cuộc diệt chủng lớn… cha tự hỏi tại sao… ’nhưng có người thấy nó không thật, nói rằng đây không phải diệt chủng’… một người khác lại nói với cha như vậy… một luật sư bảo cha một chuyện thực sự khiến cha phải để ý: đó là từ ‘diệt chủng’ chỉ là một từ chuyên ngành. Nó là một từ với hiệu ứng rằng, chuyện này không đồng nghĩa với ‘hủy diệt.’ Anh chị em có thể nói là hủy diệt, nhưng tuyên bố ‘diệt chủng’ là cho nó cần có những hành động sửa đổi… đó là những gì luật sư đã nói với cha.

Năm ngoái, khi cha chuẩn bị bài diễn văn, cha thấy thánh Gioan Phaolô II đã dùng từ này, ngài dùng cả hai từ: Tội ác Lớn và diệt chủng. Và cha trích một lần, trích trong ngoặc kép… và đã không được đón nhận. Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã phản ứng. Trong vài ngày, Thổ Nhĩ Kỳ đã triệu hồi đại sứ về Ankara, một đại sứ hàng đầu, và cách đây ba tháng, ông ấy mới trở lại… giống như ăn chay đại sứ vậy. Nhưng họ có quyền. Quyền phản đối, tất cả chúng ta ai cũng có. Trong bài diễn văn lần này, lúc đầu không có từ đó, đúng là thế. Cha đã thêm vào. Nhưng sau khi nghe cung giọng khoan hòa của tổng thống Armenia, cộng với việc cha đã công khai nói từ này ở Roma hồi năm ngoái, nên sẽ thật lạ nếu cha không làm thế.

Nhưng, cha muốn nêu bật một chuyện khác, và cha không nghĩ là cha sai khi nói: trong cuộc diệt chủng này, cũng như trong hai cuộc diệt chủng kia, các cường quốc đã ngoảnh mặt làm ngơ. Và vấn đề là thế. Trong Thế chiến II, một vài cường quốc đã có hình những đoàn tàu chở người Do Thái đến Auschwitz, họ có thể ném bom ngăn chặn, nhưng đã không làm. Đó là một ví dụ. Trong bối cảnh Thế chiến I, vấn đề của người Armenia là gì? Và trong bối cảnh Thế chiến II, vấn đề của Hitler và Stalin là gì, và cả sau hội nghị Yalta… chẳng ai lên tiếng cả. Người ta phải thấy điều này. Và một vấn đề lịch sử: tại sao các ông không làm thế, hỡi các cường quốc?

Cha không kết tội, cha đặt câu hỏi. Đây là chuyện chúng ta muốn biết. Họ nhìn vào cuộc chiến, vào đủ thứ… nhưng không nhìn vào con người… và cha không biết liệu có đúng không, nhưng cha muốn biết có thật là khi Hitler giết hàng loạt người Do Thái, ông ta có nói rằng, ‘Ngày hôm nay, những ai tưởng nhớ người Armenia, hãy làm chuyện tương tự với người Do Thái.’ Cha không biết có thật không, có lẽ là đồn thổi, nhưng cha có nghe chuyện như thế. Các sử gia, xin tìm hiểu xem nó có thật không. Cha nghĩ là cha có câu trả lời rồi. Nhưng cha chưa bao giờ nói lên từ này với ý xúc phạm.

Elisbetta Piqué, từ La Nacion: Chúng con xin hỏi cha, chúng con biết rằng cha và Đức Bênêđictô Giáo hoàng Danh dự đều đang hiện diện, và mới đây một vài phát biểu của Giám sự Điện Giáo hoàng, đức cha Georg Gaenswein đã cho rằng có một mục vụ ngai tòa Phêrô được chia sẻ, với một Giáo hoàng hoạt động và một Giáo hoàng chiêm niệm. Có phải có hai giáo hoàng không?

Có thời trong Giáo hội có đến ba giáo hoàng kia! (bật cười) Cha không đọc những lời này, bởi cha không có giờ. Đức Bênêđictô là Đức Giáo hoàng Danh dự, ngài đã nói rõ điều này vào ngày 11-02-2013 khi ngài tuyên bố sẽ thoái vị vào ngày 28-02, ngài sẽ về hưu và giúp Giáo hội trong lời cầu nguyện.

Và Đức Bênêđictô đang cầu nguyện trong một tu viện. Cha đến thăm ngài nhiều lần… hoặc gọi điện thoại. Có lần ngài viết cho cha một lá thư nho nhỏ. Ngài vẫn ký với chữ ký của mình, chúc cha tông du tốt đẹp, và có lần, không phải một, mà là nhiều lần, cha nói rằng thật là có phúc khi có một người ông khôn ngoan trong nhà. Cha cũng nói với ngài như thế, và ngài bật cười, nhưng với cha ngài là Đức Giáo hoàng Danh dự. Ngài là một người ông khôn ngoan. Ngài là con người bảo vệ đôi vai cho cha, và nâng đỡ cha trong lời cầu nguyện.

Cha không bao giờ quên bài diễn văn ngài nói với các hồng y trong đó có cha, vào ngày 28-02, ‘trong số anh em, tôi chắc chắn có một người sẽ kế nhiệm tôi. Tôi hứa vâng phục.’ Và ngài đã làm thế. Nhưng cha có nghe chuyện, mà chuyện này cha không chắc bởi có thể chỉ là chuyện kháo nhau, nhưng nó đúng với cá tính của ngài. Là có người tìm đến với ngài để phàn nàn về Giáo hoàng mới… và ngài đuổi họ đi, đuổi theo kiểu trí thức Bravia, nhưng ngài đuổi họ đi. Cha không biết chuyện này có thật không. Thật tuyệt nếu ngài là con người như thế. Ngài là người nhất ngôn cửu đỉnh, một con người kiên định, tứ mã nan truy.

Ngài là Đức Giáo hoàng Danh dự. Và cha không biết anh chị em có nhớ hay không, là cha đã công khai cảm ơn ngài. Cha không biết lúc nào, nhưng cha nhớ là trên chuyến bay, cảm ơn ngài vì đã mở cánh cửa cho cương vị Giáo hoàng Danh dự. Nhưng 70 năm trước, không có chuyện giám mục danh dự. Ngày nay thì có rồi… thời nay người ta sống lâu hơn, nhưng liệu có thể điều hành giáo hội với tuổi cao, với đủ bệnh tật đau đớn hay không? Và ngài đã dũng cảm, với lời cầu nguyện và khoa học, thần học, quyết định mở ra cánh cửa này, và cha tin đây là chuyện tốt cho Giáo hội.

Nhưng chỉ có một Giáo hoàng, và người kia… có lẽ cũng như giám mục danh dự, cha không nói nhiều là có nhiều, nhưng có thể có đến hai hay ba giám mục danh dự. Các vị sẽ là cương vị danh dự…

Ngày kia (28-6) là kỷ niệm 65 năm linh mục của ngài. Anh của ngài là Georg cũng sẽ đến, bởi cả hai anh em cùng được phong chức một lần. Sẽ có một sự kiện nhỏ với các trưởng tu viện và vài người nữ, bởi ngài thích… ngài chấp nhận, nhưng muốn buổi lễ thật khiêm tốn thôi, và cha cũng sẽ ở đó, và cha sẽ nói đôi đều với con người vĩ đại này, con người cầu nguyện và can trường, Đức Giáo hoàng Danh dự của chúng ta, người nhất ngôn cửu đỉnh, một con người cao thượng của Chúa, người rất thông minh, và với cha là một người ông khôn ngoan trong nhà.

Francis Benedict GansweinAlexej Bukalov (Italtass): Xin cảm ơn Đức Thánh Cha, vì chuyến đi đầu tiên đến một nước thuộc lãnh thổ Xô-viết cũ, và là một việc rất quan trọng mà con cần theo sát. Câu hỏi của con có hơi ra ngoài vấn đề một chút. Con biết là cha đã ủng hộ rất nhiều cho Công đồng Toàn Chính thống, và khi gặp Thượng phụ Kyrill ở Cuba, cha cũng có nhắc đến. Bây giờ cha nhận xét sự kiện, có thể gọi là‘diễn đàn’ này, như thế nào.

Một nhận xét tích cực. Một bước nữa tiến về phía trước, không phải với 100% sức lực, nhưng vẫn là một bước tiến. Nhiều chuyện được ‘sửa đổi,’ trong ngoặc kép nhé, và thành thật thì, cha thấy đây là những chuyện có thể được giải quyết theo thời gian. Về phần 4 vị đã không đến, có lẽ các vị muốn làm việc này về sau, chậm hơn một ít. Nhưng cha nghĩ bước đầu tiên, cứ làm theo sức mình có thể. Lúc đầu, là rón rén, và sau là bước những bước đầu tiên. Cha hạnh phúc. Các vị đã nói về nhiều điều. Cha nghĩ kết quả thật tích cực. Sự thật là các Giáo hội độc lập đã quy tụ nhân danh tinh thần Chính thống, để nhìn nhau trực diện, để cầu nguyện chung và nói chuyện với nhau, có khi còn là đùa vui nữa… tuyệt đối là tích cực! Cha tạ ơn Chúa. Những lần tiếp theo, sẽ còn hơn nữa. Xin chúc tụng Chúa.

Edward Pentin (National Catholic Register): Như Đức Gioan Phaolô II, cha có vẻ là một người ủng hộ Liên hiệp Âu châu, và cha đã vinh danh dự án một châu Âu khi nhận giải Charlemagne mới đây. Cha có lo ngại rằng Brexit có thể khiến châu Âu tan rã và thậm chí là chiến tranh?

Đã có một cuộc chiến trong lòng châu Âu. Hơn nữa, có một bầu khí chia rẽ, không chỉ trong châu Âu, mà là trong từng quốc gia. Nếu anh chị em nhớ về Catalan, về Scotland hồi năm ngoái. Những chia rẽ này… cha không nói rằng chúng nguy hiểm, nhưng chúng ta phỉa nghiên cứu cho kỹ, và trước khi đi một bước ly khai, thì phải tìm những giải pháp có thể thành tựu… Cha đã không nghiên cứu lý do vì sao Liên hiệp Anh lại muốn đưa ra quyết định này, nhưng có sự chia rẽ. Cha tin là cha đã nói chuyện này một lần rồi.

Sự độc lập là để giải phóng. Ví dụ như, toàn thể châu Mỹ La tinh, ngay cả các nước ở châu Phi, đã được giải phóng khỏi vương triều Madrid. Ngay cả ở châu Phi, được giải phóng khỏi Paris, Luân Đôn, Amsterdam… Và đây là một sự giải phóng, sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta nhận thức rằng phía sau chuyện này là một văn hóa, là một lối suy nghĩ… . đúng hơn, là sự ly khai của một quốc gia. Cha không nói về Brexit, mà về Scotland, tất cả… Đây là một chuyện đã được đặt tên rồi, và cha nói ra không có ý xúc phạm, đây là một từ mà các chính trị gia dùng: Balkan hóa (Balkanization). Đây là một sự ly khai, chứ không phải giải phóng. Và phía sau chuyện này, là lịch sử, văn hóa, những hiểu nhầm, thậm chí là thiện chí… rõ ràng là thế.

Với cha, hiệp nhất luôn luôn tốt hơn xung đột’, nhưng có những con đường khác nhau cho sự hiệp nhất… và cả tình huynh đệ, chúng ta có Liên hiệp Âu châu, tình huynh đệ thì tốt hơn thù địch và xa cách. Tình huynh đệ thì tốt hơn, và xây cầu thì tốt hơn xây tường. Người ta phải suy ngẫm về tất cả những chuyện này.

Đây là một bước sáng tạo, và cũng là ‘sự bất hòa lành mạnh,’ đem lại sự độc lập hơn, tự do hơn cho các nước trong Liên hiệp, để nghĩ đến một dạng Liên hiệp khác, để sáng tạo. Và sáng tạo trong những nơi làm việc, trong nền kinh tế. Có một nền kinh tế không vững trong châu Âu. Ví dụ như, ở Ý, 40% thanh niên từ 25 tuổi trở xuống không có việc làm. Có chuyện gì đó không ổn trong Liên hiệp to lớn này, nhưng chúng ta không được vì chuyện nhỏ mà bỏ chuyện lớn. Chúng ta phải tìm cách để chuộc lại và tái tạo, bởi tái tạo con người, tái tại nhân bản là một hành trình, một chuyện phải làm. Một thiếu niên không giống một người trưởng thành, hay một người cao tuổi. Có giống và có không giống. Người ta phải liên tục tái tạo. Đây chính là điều đem lại sự sống, là khao khát sống, và đem lại hoa trái. Và nhấn mạnh điều này, ngày nay, hai từ then chốt cho Liên hiệp Âu châu, là sáng tạo và sinh hoa trái. Đây là thách thức. Đây là những gì cha nghĩ.

Tilmann Kleinjung (ARD, Đức): Thưa Đức Thánh Cha, con muốn hỏi cha một câu. Hôm nay, cha nói về những ơn của các Giáo hội chia sẻ, ơn mà các Giáo hội cùng chia sẻ. Bốn tháng nữa, cha sẽ đến Lund dự kỷ niệm 500 năm phong trào kháng cách, con nghĩ có lẽ bây giờ là lúc để chúng ta không chỉ nhớ về những vết thương trong quá khứ của cả hai bên, nhưng còn là lúc để nhận ra những ơn của phong trào kháng cách. Có lẽ, cũng đến lúc để hủy án phạt rút phép thông công với Martin Luther, hay một sự hòa giải nào đó. Con xin cảm ơn cha.

Cha nghĩ rằng những ý định của Martin Luther không sai. Ngài là một nhà cải cách. Có lẽ một vài phương pháp đã không đúng. Nhưng, thời đó, nếu chúng ta đọc chuyện đời của một mục tử, một người Đức, đã thay đổi khi thấy thực tế thời đó, thấy Giáo hội không thực sự là môt hình mẫu để noi theo. Trong giáo hội có tham nhũng, có trần tục, bám víu vào tiền bạc, quyền lực… thế là ngài phản kháng. Ngài thông minh và đã có những bước hướng về suy tư công chính hóa, và ngài đã làm. Ngày nay, người phái Luther, người Công giáo, Tin Lành, tất cả chúng ta đều đồng ý về giáo lý công chính hóa.

Về điểm này, một điều hệ trọng là, ngài đã không sai. Ngài đã chế thuốc cho Giáo hội, nhưng rồi thuốc này kết cấu thành một khuôn khổ, thành một đường lối đức tin, thành một đường lối hành động, một lối phụng vụ, và không chỉ có ngài, mà còn có Zwingli, có Calvin, mỗi người mỗi khác, và phía sau họ là ai? Các vua chúa. Chúng ta phải đi vào trong chuyện của thời đó. Đây là chuyện không dễ hiểu, không dễ.

Rồi thì mọi chuyện tiến tới, và ngày nay đối thoại rất tốt đẹp. Bản văn về công chính hóa, là một trong những văn bản đại kết phong phú nhất trong thế giới, một điểm mà hầu hết đều đồng thuận. Nhưng có những chia rẽ, cũng do các giáo hội. Ở Buenos Aires, có hai giáo hội Luther, và mỗi giáo hội nghĩ mỗi cách khác nhau… ngay cả trong cùng giáo hội Luther cũng không có sự hiệp nhất, nhưng họ tôn trọng nhau, họ yêu thương nhau, và điều khiến tất cả chúng ta rất đau đớn chính là sự khác biệt, và ngày nay chúng ta tìm cách để đi theo con đường gặp gỡ nhau sau 500 chia rẽ. Cha nghĩ chúng ta phải cầu nguyện với nhau, phải cầu nguyện. Cầu nguyện là điều quan trọng. Thứ hai, làm việc chung vì người nghèo, vì những người bị bách hại, vì nhiều người, vì các người tị nạn, vì nhiều người đau khổ, làm việc với nhau và cầu nguyện với nhau, các thần học gia cũng nghiên cứu với nhau, nhưng đây là con đường dài, rất dài.

Có lần cha đùa rằng ‘Tôi chẳng biết khi nào sẽ có hiệp nhất trọn vẹn.’ Khi nào đây? ‘Ngày Con Người sẽ đến’, bởi chúng ta không biết… Thần Khí sẽ ban ơn, nhưng trong lúc này, chúng ta hãy cầu nguyện, yêu thương nhau và cùng làm việc với nhau. Trên tất cả, hãy vì người nghèo, vì người đau khổ, vì hòa bình và nhiều chuyện khác… chống lại nạn bóc lột và nhiều việc nữa mà chúng ta phải chung tay hành động.

Cecile Chambraud (Le Monde): Con xin hỏi về chuyện các nữ phó tế.

Có một tổng thống Argentina từng khuyên các tổng thống khác rằng ‘Khi muốn giải quyết việc gì, hãy lập một ủy ban.’ Nhưng, người đầu tiên ngạc nhiên về chuyện nữ phó tế này, chính là cha… Buổi đối thoại với các bề trên dòng tu đã được ghi lại và đăng trên L’ Osservatore Romano… Cha và mọi người đã nghe là trong các thế kỷ đầu tiên, có các nữ phó tế. Có thể nghiên cứu việc này, và có thể lập một ủy ban. Không còn yêu cầu nào khác.

Và cha có kể lại là cha biết một thần học gia người Syria, đã qua đời rồi, ông viết một bài phê bình trên tờ Saint Ephrem của Ý, và từng nói về các nữ phó tế, trong thời gian cha đến ở tại Via della Scrofa, nơi ông sống… nhưng ông không rõ liệu họ có được truyền chức hay không. Chắc chắn là có các phụ nữ giúp đỡ các giám mục, và giúp trong ba việc. Giúp rửa tội cho phụ nữ, bởi thời đó rửa tội là nhận chìm hoàn toàn trong nước. Thứ hai là xức dầu tiền phép rửa cho phụ nữ. Và việc thứ bai, chuyện này làm cha thấy bật cười, là khi có người đến phàn nàn với giám mục rằng chồng đánh mình, thì giám mục nhờ một nữ phó tế xem cơ thể của bà để tìm các vết bầm tím…

Nhưng, có thể nghiên cứu, lập một ủy ban. Vậy mà người ta nói: ‘Giáo hội mở cửa cho các nữ phó tế.’ Thật sao? Cha hơi phiền, bởi như thế là không nói sự thật. Cha nói với trưởng Thánh bộ Giáo lý Đức tin, và ngài bảo cha rằng, ‘xem này, có nghiên cứu của ủy ban thần học quốc tế năm 1980.’ Và cha nhờ ngài làm một danh sách những ai cha có thể đưa vào để lập ủy ban này. Ngài gởi cho cha một danh sách để lập ủy ban này, nhưng cha tin rằng chủ đề này đã được nghiên cứu nhiều, và cha không nghĩ sẽ khó để làm sáng tỏ luận điểm này.

Nhưng, có một chuyện nữa, một năm rưỡi trước, cha có lập một ủy ban các nữ thần học gia làm việc với hồng y Rylko, bởi suy tư của phụ nữ rất quan trọng. Phụ nữ suy nghĩ khác đàn ông, và chúng ta không thể nào đưa ra quyết định tốt khi không chịu lắng nghe phụ nữ. Nhiều lần ở Buenos Aires, cha tham vấn với các cố vấn, rồi cha hỏi các bà và họ nhìn mọi chuyện theo một hướng khác, rất khác… Nhưng, các giải pháp rất có kết quả, thật tuyệt.

Cha muốn nhấn mạnh rằng một điều quan trọng hơn nữa, là cách hiểu, cách nghĩ và cách nhìn của phụ nữ, và những khả năng của phụ nữ. Giáo hội là một người nữ. Là ‘la Chiesa’, giáo hội không phải là một bà ở giá, nhưng là một phụ nữ kết hôn với Con Thiên Chúa, là tân nương của Chúa Giêsu Kitô.

Cindy Wooden, (Catholic News Serivce): Thưa Đức Thánh Cha, vài ngày trước, hồng y Marx, đã nói trong một hội nghị lớn ở Dublin rằng, Giáo hội Công giáo phải xin cộng đồng người đồng tính tha thứ vì đã loại họ ra ngoài rìa. Trong những ngày sau vụ xả súng ở Orlando, nhiều người đã nói rằng cộng đồng Kitô giáo có phần nào trách nhiệm về sự thù ghét người đồng tính. Cha nghĩ thế nào?

Cha sẽ lặp lại những lời cha đã nói trong chuyến tông du đầu tiên. Cha lặp lại những gì mà Giáo lý của Giáo hội Công giáo nói rằng không được kỳ thị họ, phải tôn trọng và đồng hành với họ trong mục vụ. Có thể lên án, nhưng không phải vì các lý do thần học, mà là các lý do hành vi lễ độ… Có những hành vi khá là xúc phạm người khác, phải không nào?…

Nhưng, những chuyện này chẳng liên quan gì đến vấn đề. Vấn đề là một con người có một hoàn cảnh một tình trạng, nếu người đó có thiện ý và tìm kiếm Thiên Chúa, thì chúng ta là ai mà phán xét? Chúng ta phải đồng hành với họ thật tốt… đây là những gì giáo lý dạy, một giáo lý rõ ràng. Rồi, có những truyền thống ở nhiều nước, nhiều văn hóa có tinh thần khác về vấn đề này.

Cha nghĩ rằng Giáo hội không chỉ phải xin tha thứ, không chỉ xin những người đồng tính bị xúc phạm tha thứ. Mà còn phải xin người nghèo, xin những phụ nữ bị lạm dụng, những trẻ em bị bóc lột lao động, tha thứ. Giáo hội phải xin tha thứ vì đã chúc lành cho quá nhiều vũ khí. Giáo hội phải xin tha thứ vì đã không hành xử đúng, khi cha nói Giáo hội là cha muốn nói đến các Kitô hữu. Giáo hội thánh thiện, chúng ta là người có tội. Các Kitô hữu phải xin tha thứ vì đã không đồng hành với quá nhiều chọn lựa, không đi cùng với quá nhiều gia đình… cha nhớ thời còn nhỏ, văn hóa ở Buenos Aires, một văn hóa Công giáo khép kín. Cha phải vượt qua. Một gia đình li hôn thì không được vào nhà người khác, cha đang nói về chuyện cách đây 80 năm. Văn hóa đã thay đổi, tạ ơn Chúa.

Kitô hữu phải xin tha thứ, vì nhiều chuyện chứ không chỉ những chuyện này. Xin tha thứ, chứ không chỉ là là xin lỗi. Lạy Chúa, xin tha thứ. Đây là một từ mà nhiều lần chúng ta quên mất. Bây giờ, cha là một mục tử, cha đang giảng đạo ư. Không, đây là sự thật. Nhiều lần… nhiều lúc các linh mục là ông chủ chứ không phải người cha, các linh mục đánh phạt chứ không ôm lấy, không tha thứ va an ủi. Nhưng có nhiều linh mục không như thế. Có nhiều linh mục tuyên úy bệnh viện, tuyên úy nhà tù, nhiều vị thánh. Nhưng những con người thánh thiện này chúng ta không thấy. Bởi sự thánh thiện thì khiêm nhu, ẩn mình. Nhưng cũng có sự vô liêm sỉ lớn lối, nó huênh hoang, và anh chị em cũng thấy có nhiều tổ chức, nhiều con người không tốt như họ tự nhận… họ quyên tặng một khoản khá lớn và lại nhìn anh chị em kiểu ngó lơ, như các cường quốc đã ngó lơ ba cuộc diệt chủng vậy. Các Kitô hữu chúng ta, cả các giám mục linh mục, chúng ta có mắc phạm điều này. Nhưng chúng ta cũng có Mẹ Têrêsa thành Calcutta, và nhiều người khác như mẹ. Chúng ta có nhiều người đang phục vụ ở châu Phi, nhiều giáo dân tốt, nhiều cuộc hôn nhân thánh thiện.

Có lúa và có cỏ dại. Và như Chúa Giêsu nói rằng Nước Trời sẽ đến… chúng ta đừng thấy tai ác vì có tình trạng này. Chúng ta phải cầu nguyện để Chúa làm cho cỏ dại tiêu đi và lúa mọc thêm. Nhưng đây là đời sống của Giáo hội Chúng ta không thể tự đặt ra các giới hạn. Tất cả chúng ta chúng ta đều là thánh, bởi tất cả chúng ta đều có Thần Khí. Nhưng tất cả chúng ta đều là người có tội, cha là người trước hết.

Cha Lombardi: Về chuyến tông du Ba Lan, mà chúng con đã bắt tay chuẩn bị rồi, và sẽ dành cả tháng 7 để sẵn sàng cho nó. Nếu cha có thể cho chúng con đôi điều về những cảm giác của cha về Đại hội Giới trẻ Thế giới trong Năm Toàn xá Lòng Thương xót này… và một chuyện cụ thể hơn là, cha đã đến viếng Đài tưởng niệm Tzitzernakaberd trong chuyến đi Armenia này, và cha cũng sẽ đến viếng Auschwitz và Birkenau trong chuyến đi Ba Lan,… vậy con có cảm giác là cha khao khát sống những thời khắc này trong thinh lặng hơn là nói ra, và con muốn hỏi có phải cha có một động cơ cụ thể khi thích làm thế hay không.

Hai năm trước, tại Redipuglia, cha cũng làm thế để tưởng niệm một trăm năm Thế chiến I. Cha đến đó trong thinh lặng… rồi sau đó có thánh lễ, và trong thánh lễ thì cha giảng, nhưng đó là chuyện khác. Thinh lặng.

Ngày hôm qua, cha muốn đến nơi kinh hoàng đó, đến mà không cần bài diễn văn nào, không có ai theo, chỉ cần vài người thiết yếu thôi,… nhưng mà thế nào cũng có các ký giả, nhưng cha không muốn có chào mừng hay gì cả… đừng,… cha muốn một mình, đi vào, cầu nguyện và xin Chúa cho cha ơn biết khóc. (CNA)

J.B. Thái Hòa chuyển dịch

(Nguồn: phanxico.vn)